Đỗ Xuân Thạnh_Skyskysky :

Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

“Tuổi thơ dữ dội” của ca sỹ Khánh Ly



“Tôi quỳ giữa nhà, bố dượng tôi cầm chiếc giầy của ông đập túi bụi vào tôi. Mẹ tôi ngồi nhìn tôi bị đánh, thản nhiên, thỉnh thoảng thêm vào … đánh nữa đi, đánh cho nó chết…”- Là những ký ức đau thương đầy nước mắt về tuổi thơ dữ dội của Khánh Ly.

“Tuổi thơ dữ dội” của ca sỹ Khánh Ly


Trong hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm”, Khánh Ly đã có những trang viết đầy dằn vặt, đau khổ về tuổi thơ và năm tháng tuổi trẻ của mình. Những ngày tháng cơ cực, nghèo khổ, sống lạnh lẽo trong sự ơ hờ của mẹ đẻ… đã trở thành ký ức đau thương, là câu hỏi lớn dằn vặt trong tâm tư, tình cảm của Khánh Ly, trong suốt cuộc đời.

Hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm” là những trang viết tràn ngập cảm xúc. Ở đó có sự đơn độc tận cùng của người luôn hoang mang về nguồn cội, về sự xuất thân, về tình yêu thương, về bản ngã và những mối quan hệ gia đình nhợt nhạt. Đọc “Chuyện kể sau 40 năm” để thấy một cô bé Mai (tên khai sinh của ca sỹ Khánh Ly) tội nghiệp, lẻ loi, đơn độc, bị ghẻ lạnh, côi cút trong nỗi đau riêng mình, ôm ấp những khát vọng riêng mình.



Khánh Ly

Được sự cho phép của Khánh Ly, chúng tôi xin lược đăng những đoạn viết về tuổi thơ dữ dội của “bé Mai” trong hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm”. Câu chuyện bắt đầu khi bố mẹ ly hôn, “bé Mai” ở với mẹ, bố dượng và những người em cùng mẹ khác cha. Cuộc sống vất vả, bươn chải, và “bé Mai” luôn tự hỏi, tại sao mẹ không bao giờ quan tâm đến mình, tại sao mẹ không yêu thương mình, tại sao mình luôn bị đánh đập…? Và một câu hỏi nhức nhối đã theo “bé Mai” đến suốt cuộc đời, liệu mẹ có phải là mẹ đẻ của mình?

… “Song mẹ tôi dường như quên hẳn sự có mặt của tôi trong đám con đông đúc của bà. Suốt một đời tôi thèm khát vòng tay ôm ấp và những lời nói trìu mến của một người Mẹ. Tôi thèm tình thương, và phải chăng những bi thảm của đời tôi, bắt đầu từ sự thèm khát bình thường tội nghiệp này…”

… “Bà nội mua cho tôi một chiếc xe đạp mà tôi luôn luôn chạy giữa đường chứ không bao giờ đi vào lối dành cho xe đạp. Đùng một cái, chiếc xe bị mất. Nó bị ăn cắp chứ không phải tôi sơ ý. Mẹ tôi bảo…mày cứ chờ đấy, bố mày về rồi mày sẽ biết. Tôi quỳ giữa nhà, bố tôi cầm chiếc giầy của ông đập túi bụi vào tôi. Mẹ tôi ngồi nhìn tôi bị đánh, thản nhiên, thỉnh thoảng thêm vào … đánh nữa đi, đánh cho nó chết, cho nó chừa đi, mất xe thì mày đi bộ, không có tiền đâu mà mua xe khác cho mày… Bố tôi vừa đi làm về mặt đỏ bừng vì rượu, được lời của mẹ, ông túm lấy tóc tôi, xoắn lại, tay kia tiếp tục giơ cao chiếc giầy.

Tôi đau quá nhưng lạ lùng làm sao, tôi không hề khóc. Tôi khóc không được vì nỗi oan ức và nghĩ xe của bà nội cho và nào tôi muốn làm nó mất. Trong trái tim non dại của tôi chợt vang lên…. Bố ơi! Bố ơi! Bố ở đâu… và tôi cảm thấy một nỗi căm phẫn chưa từng có bùng lên. Anh Sơn và các em tôi chẳng đứa nào dám nói một câu, chắc chúng không hiểu vì sao tôi bị đánh như thế. Chúng còn quá nhỏ và chưa hề bao giờ bị đòn…”

Tôi thường lẫn vào đâu đó để khóc một mình sau mỗi trận đòn. Càng bị đánh tôi càng lì đòn, không sợ nữa, không cảm thấy đau đớn nữa. Căm phẫn, tủi thân, tôi cứ làm những gì tôi thích trái ngược hẳn với ý muốn của mẹ…”



Khánh Ly

… “Tan học tôi thường không đi theo đường chính mà chui qua những bụi cây, những hàng thông, những khóm lay-ơn đủ màu mọc khắp mọi nơi nhưng không bao giờ tôi bẻ hoa, chỉ tìm loài dây leo để đem về chơi nhảy dây. Bố mẹ tôi ít khi nhìn thấy tôi, ông bà gần như không để ý, không hỏi đến nếu không có gì để sai bảo, dặn dò. Tôi lại cảm thấy khoái hơn dù đôi lúc cũng tủi thân khi không được mẹ ngó ngàng.

Ngoài con đường từ nhà đến trường và ngược lại, ngoài khung cảnh yên tĩnh của hồ Chi Lăng, tôi chui xuống cái rảnh nước chảy quanh nhà, đắp đất trồng bắp cải từ những cuống cải già bị cắt bỏ, có chút xíu mầm, mà tôi tưởng là sẽ sống được. Tôi có thể lang thang trong những khoảng đất trồng đầy cỏ dại để tìm hái trái mâm xôi, bứt dây rừng, xuống hồ Chi Lăng vọc nước, bắt ốc, hoặc ngồi dưới cái rảnh nước ấy cả ngày, nếu không có ai tìm…”.

… “Trong cái cư xá gồm khoảng 10 căn, tôi cùng đám trẻ con không phân biệt Bắc Nam cùng chơi trò …tạc hình dù mẹ tôi ngăn cấm. Bà thường tặng tôi những trận đòn nhớ đời mà tôi chẳng hiểu lý do vì sao. Tự nhiên mẹ tôi lôi ra đánh, bắt xin lỗi. Tôi có lỗi gì đâu mà xin. Đánh nữa cho bỏ cái tật lì lợm. Không khóc hả, đánh nữa, đánh nữa. Tôi không bao giờ khóc ngay lúc đó, thường là sau mỗi trận đòn, tôi trốn trong nhà tắm hoặc đầu ngõ, kiếm một chỗ khuất để khóc một mình và những lúc ấy, tôi nhớ Bố tôi biết bao nhiêu. Ừ, nếu có Bố ở đây, mẹ sẽ không bao giờ đánh tôi như vậy…”


Khánh Ly kể chuyện “làm mẹ 2 con” ở tuổi 18

“Đó là năm 1964, tôi và các con đang ở thành phố Đà Lạt. Tôi vừa 18 tuổi, hai con, một gái, một trai…”- Cay đắng từ cuộc sống gia đình, lạnh lẽo với tình yêu thương của người mẹ, Khánh Ly sinh con đầu lòng năm 17 tuổi.


Trong hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm”, ngoài những ký ức cay đắng, buồn tủi về một thời thơ ấu côi cút, lạnh lẽo, Khánh Ly có kể về cuộc sống khi làm vợ, làm mẹ ở tuổi 18 của mình với người chồng đầu tiên. Những cơ cực, buồn tủi từ cuộc sống gia đình, từ sự thiếu thốn tình yêu thương của mẹ, Khánh Ly nuốt nghẹn những đau đớn vào lòng và sống với bầu trời riêng theo ý mình, bất chấp sự phản đối (và cả đánh đập) của mẹ và cha dượng.



Khánh Ly

Năm 17 tuổi, Khánh Ly sinh con đầu lòng. 18 tuổi, nữ ca sĩ đã trở thành bà mẹ 2 con. Cuộc hôn nhân chất chứa những nỗi đau thầm lặng khi nữ ca sĩ không có tình yêu với người chồng đầu tiên của mình.

Được sự cho phép của Khánh Ly, chúng tôi lược đăng những tâm sự của nữ ca sĩ về cuộc hôn nhân đầu tiên ở tuổi 18, ở tuổi trẻ non dại ấy, Khánh Ly đã là mẹ của 2 con. Vừa làm việc kiếm tiền nuôi con, vừa giữ thẳm sâu trong tâm hồn những cảm xúc tự do bay bổng, nữ ca sỹ đã sống những ngày như thế ở Đà Lạt…

… “Ba mẹ con sống với nhau hồn nhiên như cây cỏ trong ngôi nhà hai từng rộng lớn vắng người, trên một ngôi đồi mà người ở đó gọi là đồi Miên – tên ông nội hai đứa nhỏ. Nhà không cổng ngõ, không hàng rào, đồi rộng thênh thang, từ hông nhà ngó xuống, là một thung lũng nhỏ xanh rì, nhìn mông ra xa thấp thoáng đâu đó mầu đỏ của ngói bên cạnh những vườn trồng rau quả xanh ngắt, tiệp với màu của lá cỏ. Nổi lên trên màu xanh mượt mà như tấm áo dạ hội bằng nhung, tôi có thể biết được đó là những vườn hoa.

Thuở đó, Đà Lạt đẹp lắm. Người ta bảo Đà Lạt đẹp bởi có 4 mùa giống như Hà Nội nên con gái Đà Lạt tuy ít người xuất sắc nhưng ai nấy đều xinh xắn với nước da trắng hồng, mái tóc đen dày óng mượt. Tất cả đều vô tư, hồn nhiên và hiền lành. Các bà bán hàng trong chợ, dù là bán mắm cá, cũng mặc áo dài, bán đậu hủ rong cũng áo dài, bán ngô nướng lúc nửa khuya, bán mì Quảng, xôi gà cũng áo dài, hai má cứ ửng hồng lên bên cạnh bếp lửa…”




Khánh Ly

… “Tôi nhận lời lên hát cho Night Club ở Đà Lạt với giá 2500 đồng một tháng, có cơm hai bữa và ngủ chung với các chị ở vũ trường, nếu không muốn về nhà. Kể ra thì không nhiều nhưng cũng chẳng hẹp gì lúc đó. Ông bà nội của hai đứa nhỏ ở đó, tôi có cả nguyên một tầng dưới rộng thênh thang. Hình như đây là kiểu nhà sàn lúc khởi thủy cất lên, nhưng rồi sẵn cột, xây thêm thành nhà hai tầng, chưa kể chung quanh đất trống, không trồng trọt gì ngoài mấy cây ổi, mấy giàn xu. Bên nội dường như chẳng ai để ý gì đến mấy mẹ con tôi ngoài chị Lê Quyên. Vài tháng sau, tiền lương được tăng, tôi tìm một người giữ con và ngày ngày nhảy xe lam, xe đò ra chợ Đà Lạt…”

“… Vũ trường Night Club dọn ra hôtel Du Parc, cạnh Nhà Thờ Chánh Toà, Bưu điện và đài phát thanh Đà Lạt. Bà chủ vũ trường là một người Việt Hoa, có một đứa con lai không biết lai gì, khoảng 6, 7 tuổi. Bà mướn một căn phòng ngay bên kia đường cho các chị vũ nữ ở, có người nấu cơm. Tôi thường ngủ lại đây vì khuya chẳng có ai đưa tôi về tận Chi Lăng. Trong căn nhà nhỏ này, tuyệt không có bóng dáng một người đàn ông, thế nên tôi thích ngủ lại để sáng hôm sau đi chợ rồi mới về nhà, mang đồ ăn, bánh kẹo và chơi với con rồi chiều tối, lại đi xe lam đến vũ trường…”



Ở tuổi 70, Khánh Ly trở về hát tại Hà Nội. Bà chia sẻ, đó sẽ là đêm nhạc để tri ân, để tâm sự với khán giả những nỗi niềm tận đáy lòng.


… “Thời đó, tôi mới 18 tuổi, còn ham ăn, ham chơi. Chẳng có gì thú vị cho bằng quăng giày dép, chân không, đi, chạy, nhẩy khắp Đồi Cù, xuống Toà Tổng Giám mục, men theo con đường Tình Yêu dẫn lên Toà Tỉnh rồi lại lên Đồi Cù nằm khểnh dưới gốc thông hoặc thẳng tay chân trên bãi cỏ thênh thang nhìn ngắm mây trời. Không nhớ đến ai cũng không cần biết mình là ai, ngày mai sẽ ra sao. Không nhớ ai thật, không cả yêu đương. Không hề nghĩ đến gia đình và Sài Gòn. Tôi thương các con song thường tự hỏi vì sao tôi có chúng trong khi tôi chẳng có một chuẩn bị nào, chưa hề có một khái niệm về gia đình. Những lúc lang thang trên Đồi Cù, cùng các bạn gái đắm chìm dưới suối Liên Khương, tôi ước ao trở lại tuổi 14, 15. Có lẽ, tôi sẽ bắt đầu cuộc đời của tôi một cách khác.

40 năm trước, đó là ý nghĩ của một thiếu phụ tuổi 18, nằm ngủ quên dưới gốc thông già. Buổi trưa nắng vàng chan hoà trên cỏ lá, tiếng thông reo ngân dài, bất tận như một lời ru buồn. Lời ru âm thầm đi vào giấc ngủ và ở lại đó. Lời ru buồn. Rất buồn…”

… “Tôi vẫn chưa ý thức được một cách nghiêm chỉnh, bổn phận của một người mẹ. Tôi vẫn chưa đủ tình yêu đúng nghĩa dành cho các con. Tôi còn quá trẻ. Tôi đã biết gì về cuộc sống quanh tôi. Tôi yêu tôi và chưa kịp sống cho tôi. Không có gì cho tôi. Không phải là lỗi của Minh (người chồng đầu tiên của Khánh Ly- PV) trong cơn say rượu. Chỉ khổ một cái là người tôi yêu không phải là Minh. Chưa rõ ràng là ai, tôi chưa biết yêu... Mãi nhiều năm sau, tôi mới biết thế nào là tình yêu…”

H.H (Lược trích từ hồi ký “Chuyện kể sau 40 năm” của Khánh Ly)


Khánh Ly không phải là người đầu tiên trong giới ca nhạc hải ngoại về VN và chắc chắn không phải là nguời cuối cùng. Trước Khánh Ly đã có Elvis Phương, Hương Lan, Chế Linh, Tuấn Ngọc, v.v... cũng là những ca sĩ đã được nhìn nhận ở đỉnh cao trong làng ca nhạc VN ở nước ngoài.

Khánh Ly thường nói "VN luôn nằm trong trái tim", chân thật và giản dị như với bao người VN khác sống xa đất nước. Trong thâm tâm, tôi mong muốn Khánh Ly bình yên, thanh thản về nước, thực hiện nguyện vọng chờ đợi từ rất lâu của mình và mang tiếng hát về VN cho những người hâm mộ.

Khi nói đến dòng tân nhạc miền Nam trước năm 1975 và của người Việt hải ngoại sau năm 1975, ca sĩ Khanh Ly phải là một trong những người nằm ở vị trí hàng đầu, có thể xem là ca sĩ số một, thể hiện xuất sắc nhất, có hồn nhất các nhạc phẩm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Khánh Ly không chỉ nổi tiếng với người miền Nam trước và sau năm 1975, mà tên tuổi và giọng ca của Khánh Ly đã vượt không gian, thời gian đến với hàng triệu người miền Bắc yêu thích các ca khúc trữ tình, những "bài hát da vàng" của dòng nhạc Trịnh.

Bỏ qua mọi định kiến, yêu, ghét, khó ai phủ nhận được Trịnh Công Sơn là khuôn mặt tài năng nổi bật trong di sản âm nhạc hiện đại của Việt Nam. Nếu toàn bộ tác phẩm của ông là đứa con nghệ thuật, thì Khánh Ly, có thể nói, do duyên phận và định mệnh, là một nửa cơ thể của đứa con tinh thần và nghệ thuật đó.

Hạnh phúc nhất của nguời nghệ sĩ chính là lòng mến mộ và quý trọng của đông đảo công chúng. Tôi không nhìn qua lăng kính chính trị hẹp hòi để đồng nghĩa chuyến lưu diễn của Khánh Ly tại VN với cách suy diễn dễ dãi, thiếu thiện chí. Trong hoàn cảnh nào người nghệ sĩ cũng hạnh phúc khi thấy tiếng hát của mình có ý nghĩa cho cuộc sống, tài năng nghệ thuật có cơ hội thể hiện, cống hiến cho những người ái mộ, dù chỉ là một số nào đó trong những hoàn cảnh nghiệt ngã.

Công chúng hôm nay đến với Khánh Ly dường như chắc chắn không phải đến với giọng ca của một nữ ca sĩ đã ở tuổi 69. Họ đến với Khánh Ly trong con người bằng da bằng thịt, trong hình ảnh của huyền thoại "Nữ hoàng chân đất", "Nữ hoàng sân cỏ" với chất giọng trời cho "không giống ai", "giọng ca thật như nói", truyền cảm đặc sắc tâm tư của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua những nhạc phẩm của ông.

Nếu không về lúc này, khi còn có thể hát, nguyện vọng của Khánh Ly trở lại hát trên quê nhà sẽ thui chột tỷ lệ nghịch với sự tăng lên của tuổi tác, là điều đáng tiếc cho cuộc đời của một nghệ sĩ tài hoa. Ca sĩ Thanh Tuyền cũng đã nói: “Khánh Ly đã 67(*) tuổi rồi. Cũng mong được về nước để hát trên mảnh đất quê hương mình. Chị ấy muốn về trước khi quá muộn”- (Giaoducnet.vn). GC:
(*): Cách đây 2 năm.

CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 1
Đó là năm 1964, tôi và các con đang ở thành phố Dalat. Tôi vừa 18 tuổi, hai con, một gái, một trai. Ba mẹ con sống với nhau hồn nhiên như cây cỏ trong ngôi nhà hai từng rộng lớn vắng người, trên một ngôi đồi mà người ở đó gọi là đồi Miên – tên ông nội hai đứa nhỏ. Nhà không cổng ngõ, không hàng rào, đồi rộng thênh thang, từ hông nhà ngó xuống, là một thung lũng nhỏ xanh rì, nhìn mông ra xa thấp thoáng đâu đó mầu đỏ của ngói bên cạnh những vườn trồng rau quả xanh ngắt, tiệp với màu của lá cỏ. Nổi lên trên màu xanh mượt mà như tấm áo dạ hội bằng nhung, tôi có thể biết được đó là những vườn hoa.

Thuở đó, Dalat đẹp lắm. Người ta bảo Dalat đẹp bởi có 4 mùa giống như Hà Nội nên con gái Dalat tuy ít người xuất sắc nhưng ai nấy đều xinh xắn với nước da trắng hồng, mái tóc đen dày óng mượt. Tất cả đều vô tư, hồn nhiên và hiền lành. Các bà bán hàng trong chợ, dù là bán mắm cá, cũng mặc áo dài, bán đậu hủ rong cũng áo dài, bán ngô nướng lúc nửa khuya, bán mì Quảng, xôi gà cũng áo dài, hai má cứ ửng hồng lên bên cạnh bếp lửa.

Dalat có 4 mùa nhưng mùa nào cũng mát vào ban ngày, lạnh về đêm, chính thế, người ta mới thú vị khi cầm cái ngô nướng thoa mỡ hành còn nóng hổi, người ta mới cảm thấy cái nhẹ nhõm khi bước ra từ những phòng tắm nước nóng, xê xế rạp ciné Ngọc Hiệp. Bước qua bên kia đường, người ta có thể ghé vào tiệm cháo vịt, tiết canh vịt, gỏi vịt và ngay bên hông tiệm thịt vịt, cái quán mì Quảng nhỏ xíu, mái che là một vài tấm ván ép ghép với 4 cái ghế. Hai vợ chồng người bán mì Quảng tay thoăn thoắt đơm bún, chan nước hay dọn dẹp cái mặt bàn cũng chỉ là một tấm gỗ dài. Người bán vui cười nhìn khách xuýt xoa ăn trong cái nóng của bún, cái lạnh của con phố về khuya, vắng người.

Điều chắc chắn phải nói là người Dalat hiền. Hiền như nước mưa, nước suối. Hiền như cây trái tốt tươi. Hiền như hoa như gió. Như tiếng chuông reo bốn mùa. Hiền như bãi xe lam dăm ba chiếc im lìm nơi bến đậu. Hiền như những cơn mưa bất ngờ bay nghiêng qua thành phố, không hề làm rối chân khách bộ hành. Những con đường vắng lặng. Những ngôi biệt thự nằm xa nhau, không tường bao bộc, chỉ có hoa và hoa dưới những cây thông rải rác, tưởng như mọc vô tình không người săn sóc. Ấy thế mà trong cái vô tình gần như hoang dã ấy, luôn có những lúc rộ lên tiếng cười rộn ràng ngây thơ. Đời sống đẹp và đáng sống biết bao nhiêu.

Trước đó 2 năm, nói chính xác là vào tháng 11 năm 1962, khi tôi lên Dalat tìm sống, cùng đi trên chuyến xe đò Minh Trung với tôi, là chị Ngân Hà, một ca sĩ đẹp và được biết đến, không hiểu vì sao chị bỏ Sài Gòn ra đi. Lúc đó, người ta chưa nói đến chiến tranh. Sài Gòn đất rộng, người ít. Đời sống dễ dàng, người dân miền Nam chơn chất như ngọn lúa đồng bằng, cá tôm sông lạch, con đường Tự Do, sáng, trưa, chiều, tối chỉ khoảng trên một chục khách bộ hành, xích lô vài chiếc thông thả đạp như thi sĩ thơ thẩn tìm nàng thơ. Taxi cũng thỉnh thoảng ghé qua đỗ người xuống. Hình như Sài Gòn rất bằng lòng với nhịp sống thong thả, nhàn hạ. Thói quen của miền Nam trù phú đụng đâu cũng có cái ăn.

Tôi nhận lời lên hát cho Night Club ở Dalat với giá 2500 đồng một tháng, có cơm hai bữa và ngủ chung với các chị ở vũ trường, nếu không muốn về nhà. Kể ra thì không nhiều nhưng cũng chẳng hẹp gì lúc đó, lương Trung Úy cũng chỉ được như thế thôi. Ông bà nội của hai đứa nhỏ ở đó, tôi có cả nguyên một từng dưới rộng thênh thang. Hình như đây là kiểu nhà sàn lúc khởi thủy cất lên, nhưng rồi sẵn cột, xây thêm thành nhà hai tầng, chưa kể chung quanh đất trống, không trồng trọt gì ngoài mấy cây ổi, mấy giàn xu. Bên nội dường như chẳng ai để ý gì đến mấy mẹ con tôi ngoài chị Lê Quyên. Vài tháng sau, tiền lương được tăng, tôi tìm một người giữ con và ngày ngày nhảy xe lam, xe đò ra chợ Dalat.

Từ ngày di cư vào Nam, dẫu mới có 10 tuổi, tôi phải trông em, giặt quần áo, đi chợ rồi mới đi học. Mấy anh chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau nhưng lại chẳng bao giờ có thì giờ hay có chuyện gì để chia sẻ với nhau. Nói tóm lại, tuổi thơ của tôi hoàn toàn mờ nhạt, không có gì đáng ghi nhớ trong sinh hoạt gia đình, ngoại trừ ông bố đêm nào cũng say rượu và bà mẹ hết ca cẩm chồng đến mắng chửi con. Dalat chính là khoảng trời tôi mơ ước, tưởng chừng như cuộc sống ngừng lại ở đó… Nhưng không. Cuộc đời tôi bắt đầu. Từ đó, ở đó.

Vũ trường Night Club dọn ra hôtel Du Parc, cạnh Nhà Thờ Chánh Toà, Bưu điện và đài phát thanh Dalat. Bà chủ vũ trường là một người Việt Hoa, có một đứa con lai không biết lai gì, khoảng 6, 7 tuổi. Bà mướn một căn phòng ngay bên kia đường cho các chị vũ nữ ở, có người nấu cơm. Tôi thường ngủ lại đây vì khuya chẳng có ai đưa tôi về tận Chi Lăng. Trong căn nhà nhỏ này, tuyệt không có bóng dáng một người đàn ông, thế nên tôi thích ngủ lại để sáng hôm sau đi chợ rồi mới về nhà, mang đồ ăn, bánh kẹo và chơi với con rồi chiều tối, lại đi xe lam đến Vũ Trường. Căn phố đó nằm cạnh quán café Myosotis, không biết bây giờ có còn không.

Night Club là Vũ Trường duy nhất ở Dalat. Với khí hậu lành lạnh về đêm là nơi giải trí lý tưởng của thành phố du lịch, vậy mà khách khứa cũng không có bao nhiêu. Lính Mỹ, cấp cố vấn, mới được vào thị xã chơi chứ những cậu học trò vừa mới hết Trung Học, rời gia đình đến một đất nước xa lạ, nên có vẻ sợ sệt. Người của thành phố, muốn đi, sợ gặp người quen, khó chối tội với vợ, thế nên ban nhạc đêm đêm cứ chơi những bản nhạc trữ tình, chúng tôi vẫn hát, các chị ngồi uống nước tán gẫu hoặc nhảy với nhau. Mỗi đêm vài ba bàn khách. Mọi người bình thản nhìn nhau, chờ ngày cuối tuần. Có những đêm Vũ Trường gần đóng cửa, một băng Không Quân áo bay đen khăn quàng cổ màu tím hoa cà, bất ngờ xuất hiện đứng thành một hàng dài nơi cửa. Nhà hàng không chạy lại đón khách. Chúng tôi không ai ngạc nhiên. Chuyện này xảy ra thường. Tôi lặng lẽ lên sân khấu, ban nhạc hiểu ý chơi bài “Gửi gió cho mây ngàn bay”. Tôi hát xong, những chiếc khăn quàng màu tím hoa cà lặng lẽ quay ra, đi vào đêm tối, nơi các anh từ đó bước ra. Không bao giờ hỏi nhưng tôi biết một phi vụ vừa hoàn tất.

Những đêm trời lạnh, mưa rất nhẹ, không gì thú vị hơn ngồi hát hay nghe một tình khúc Tiền Chiến. Những người lính Mỹ non trẻ kia đang miệt mài bước nhảy, cố quên đi nỗi buồn xa nhà, nỗi lo sợ súng đạn trên mảnh đất mà họ không bao giờ hiểu được vì sao họ đến đây. Họ lại càng không hiểu ý nghĩa của khúc hát kia. Chỉ biết trong đêm lạnh, khúc hát buồn, tiếng hát còn non trẻ với những ước mơ chưa thành hình và nỗi lòng khắc khoải của kẻ xa nhà quấn quít lấy nhau ấm áp chia sẻ đến không ngờ. Nhiều năm sau, nếu những người lính ấy còn sống mà trở về, chắc chẳng bao giờ họ nghĩ đến cái vũ trường xưa, nơi thành phố có những cơn mưa bất ngờ nghiêng nghiêng bay trên con phố vắng người vào những đêm gió lạnh. Cũng có thể họ đã không bao giờ trở về để mà nhớ.

Tôi không sống với gia đình nhiều. Tôi không có bạn gái. Bạn của anh tôi cũng là bạn của tôi. Chúng tôi gọi nhau bằng …chú và xưng tôi, không có anh em gì cả. Có lẽ thế, tính tôi không hề có chút dịu dàng nào cho đến khi có con và chỉ dành cho con. Có lẽ thế, tôi dễ sống chung với các chị vũ nữ mà tôi thật sự quý mến như một gia đình. Các tay …anh hùng hảo hán ở Sàigòn, Dalat hình như cũng rất quý tôi, đứa em gái lạc loài, lờ khờ trong thế giới muôn mặt về đêm. Chẳng ai hỏi tôi từ đâu đến, con cái nhà ai. Tôi cũng không tò mò về cuộc sống của các chị vũ nữ.

Thời bấy giờ, giới vũ nữ là giới làm rất nhiều tiền và rất nhiều người có học. Họ chỉ trở thành vũ nữ để giúp gia đình trong khoảng thì giờ rỗi rảnh. Công việc của các chị ấy là nhảy với khách hàng, những người đi Vũ Trường một mình, những người mới biết khiêu vũ. Thời 60, khiêu vũ là một nghệ thuật. Mọi người nhẩy lấy đẹp, nhẩy biểu diễn. Khiêu vũ là một nghệ thuật, không hề có ý đen tối, lợi dụng. Khách đến Vũ Trường và vũ nữ đối xử với nhau lịch sự. Có những chị nổi tiếng chỉ vì nhẩy giỏi, nhẩy đẹp. Các chị không đi đêm với khách, tôi biết vì tôi ở cùng các chị một nhà.

Vũ Trường đóng cửa, ai muốn đi ăn đêm thì thường chạy tới tiệm xôi gà trước mặt khách sạn Thủy Tiên, sau lưng tiệm bánh mỳ Xương Ký đầu con dốc Hàm Nghi. Chủ quán là cặp vợ chồng trẻ, con ông bà Bắc Hương cơm tám, giò chả nằm gần café Tùng – ông bà chủ quán xôi này hiện đang ở Porland, Oregon - nhiều đêm, vừa thấy mặt tôi, cô vợ da trắng, má hồng cười như hoa nở, hét toáng lên… Đùi Khánh Ly… Phao câu Khánh Ly… câu rao ngắn gọn làm ai cũng quay lại nhìn tôi cười. Và tôi không hề cảm thấy ngượng ngùng, sà ngay vào hàng cầm chiếc đùi gà, miếng phao câu béo ngậy, đĩa xôi trắng dẽo thơm phức mỡ hành. Ở một thành phố nhỏ như Dalat, ai cũng biết mặt nhau.

Cùng đi ăn với chúng tôi là một số các …anh hùng có tên tuổi. Những cái tên ngộ nghĩnh đôi khi do thành tích mà có. Các bạn ấy còn trẻ, có người trạc tuổi tôi, có người lớn hơn nhưng ai cũng làm mặt nghiêm, lạnh lùng ít nói. Họ làm ra vậy giữa chốn đông người, thật ra, họ dễ thương, sống có tình nghĩa. Họ có bổn phận bảo vệ nhà hàng, các chị vũ nữ, ca nhạc sĩ. Mấy ông say xỉn quậy phá, gây gỗ, họ là người giải quyết, giảng hoà hoặc mời các ông đi về chứ không bao giờ họ gây chuyện rắc rối cho nhà hàng. Giới giang hồ, các chị vũ nữ và ca nhạc sĩ vì thế mà gần nhau, thương nhau và luôn bênh vực cho nhau. Thời đó, dưới mắt tôi, họ là những người hùng. Cách sống của giới này ảnh hưởng đến lối sống và cách suy nghĩ của tôi không ít.

Tôi hát chưa ra gì nhưng lại được nhiều người thương thế nên cuộc sống mấy mẹ con coi bộ cũng đỡ khổ. Tôi mua quần áo đẹp nhất Dalat cho con tôi ở tiệm Au Printemps. Tôi sục vào lầu trên của chợ Hoà Bình, nơi bán quần áo cũ của Mỹ - hàng viện trợ - tìm mua áo da. váy len. giầy bốt. Diện vào, ai dám nói là quần áo cũ. Tôi thường tới quán café nơi Bích Ly, chị cả của ban CBC ngồi giữ két, nói dóc. Bích Ly và tôi hình như bằng tuổi nhau hoặc Ly kém tôi một tuổi gì đó. Hai đứa cùng tên Ly, cùng đen đen như nhau, giọng cũng khào khào giống nhau nên bắt chuyện gớm lắm… Giờ gặp lại trên xứ Mỹ, hai đứa vẫn tưởng như đang ngồi trong quán café ở Dalat.

Thời đó, tôi mới 18 tuổi, còn ham ăn, ham chơi. Chẳng có gì thú vị cho bằng quăng giày dép, chân không, đi, chạy, nhẩy khắp Đồi Cù, xuống Toà Tổng Giám mục, men theo con đường Tình Yêu dẫn lên Toà Tỉnh rồi lại lên Đồi Cù nằm khểnh dưới gốc thông hoặc thẳng tay chân trên bãi cỏ thênh thang nhìn ngắm mây trời. Không nhớ đến ai cũng không cần biết mình là ai, ngày mai sẽ ra sao. Không nhớ ai thật, không cả yêu đương. Không hề nghĩ đến gia đình và Saigon. Tôi thương các con song thường tự hỏi vì sao tôi có chúng trong khi tôi chẳng có một chuẩn bị nào, chưa hề có một khái niệm về gia đình. Những lúc lang thang trên Đồi Cù, cùng các bạn gái đắm chìm dưới suối Liên Khương, tôi ước ao trở lại tuổi 14, 15. Có lẽ, tôi sẽ bắt đầu cuộc đời của tôi một cách khác.

40 năm trước, đó là ý nghĩ của một thiếu phụ tuổi 18, nằm ngủ quên dưới gốc thông già. Buổi trưa nắng vàng chan hoà trên cỏ lá, tiếng thông reo ngân dài, bất tận như một lời ru buồn. Lời ru âm thầm đi vào giấc ngủ và ở lại đó. Lời ru buồn. Rất buồn…

Khánh Ly
CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 2
Ngày di cư tôi, tôi mới 9, 10 tuổi.Chưa kịp làm quen với Sài Gòn, còn đang lạ lùng với cách nói cười rộn ràng rất Nam kỳ, còn thích thú xé tờ giấy một đồng làm hai, gọi là 5 cắc đủ mua một ly đá nhận xi-rô, đã theo gia đình lên Dalat. Đó là năm 1956. Bố tôi – tức dượng nếu gọi theo tiếng miền Nam, tôi gọi dượng bằng bố theo lời mẹ tôi dặn – làm việc ở Ty cảnh sát Dalat. Gia đình tôi ở một biệt thự khu Chi Lăng. Căn nhà nằm lưng chừng con dốc ngắn và tất cả đều xây một kiểu giống nhau. Tôi chưa bao giờ đi hết con dốc đó để biết còn gì phía sau vì tôi bắt đầu đi học.

Trường tiểu học Phan Chu Trinh nằm ngay một ngã tư. Trước mặt nó là khu đất trống có con đường nhỏ dẫn vào đồi Bà Miên, nơi mà ít năm sau này, lại chính là nơi mẹ con tôi ở. Con đường đó cũng đưa vào trường Đại Học Quân Sự và khoảng đất trống trước mặt trường Phan Chu Trinh năm nào nay đã xây đầy những biệt thự của các ông Tướng. Căn đầu tiên là nhà của tướng Thái Quang Hoàng, cách 2 căn là tướng Đỗ Cao Trí. Tôi vào học lớp một vì chuyển qua chương trình Việt, nên chẳng hiểu gì cả, thậm chí không biết đọc tiếng Việt, trong khi chị tôi, chị Lệ Yến, lại được bố mẹ tôi cho học tại trường Domaine de Marie, chương trình Pháp-Việt.

Từ nhà đến trường không xa lắm mà cũng không gần. Tôi đi bộ lúc đi và cả lúc về. Bấy giờ, ngoài Ngọc Anh, tôi biết mình có thêm 3 đứa em nữa. Duyên Hải, Tố Loan, Tố Uyên. Sau giờ đi học, tôi làm những gì mẹ tôi bảo làm nhưng thường trốn nhà ra hồ Chi Lăng chơi. Chân không mang giày dép, thơ thẩn đi quanh tụt xuống ven hồ mò ốc hoặc lượm …cứt để chơi – tôi tưởng đó là thuốc tể như của bà nội. Ở đó có một biệt thự to lắm. Người ta bảo nguyên khu Chi Lăng này, ngày xưa dành cho người Pháp, và các căn biệt thự của chúng tôi cũng vậy! Cái Hotel Chi Lăng với cái giếng nước giả xây trước mặt cũng là nơi người Pháp thường đến nghỉ hè. Thời đó chưa có tên Chi Lăng mà là Saint Benoit. Mãi sau này vẫn còn những người gọi thế.

Tan học tôi thường không đi theo đường chính mà chui qua những bụi cây, những hàng thông, những khóm lay-ơn đủ màu mọc khắp mọi nơi nhưng không bao giờ tôi bẻ hoa, chỉ tìm loài dây leo để đem về chơi nhảy dây. Bố mẹ tôi ít khi nhìn thấy tôi, ông bà gần như không để ý, không hỏi đến nếu không có gì để sai bảo, dặn dò. Tôi lại cảm thấy khoái hơn dù đôi lúc cũng tủi thân khi không được mẹ ngó ngàng.

Ngoài con đường từ nhà đến trường và ngược lại, ngoài khung cảnh yên tĩnh của hồ Chi Lăng, tôi chui xuống cái rảnh nước chảy quanh nhà, đắp đất trồng bắp cải từ những cuống cải già bị cắt bỏ, có chút xíu mầm, mà tôi tưởng là sẽ sống được. Tôi có thể lang thang trong những khoảng đất trồng đầy cỏ dại để tìm hái trái mâm xôi, bứt dây rừng, xuống hồ Chi Lăng vọc nước, bắt ốc, hoặc ngồi dưới cái rảnh nước ấy cả ngày, nếu không có ai tìm.

Qua đến năm 1957, gia đình tôi phải chuyển về Saigon. Hơn một năm ở Dalat, có một vài điều đã khắc sâu vào tâm trí non nớt của tôi và không bao giờ tôi quên. Nó là những vết cháy dẫu đến ngàn năm vẫn còn hằn dấu…. Trước ngày di cư, Hà-nội mở một Hội Chợ, ở đâu thì tôi không nhớ nhưng có lẽ do người Pháp tổ chức sau khi hội nghị Gienève được ký kết. Tôi đi hội chợ với một thằng nhỏ ở cùng đường, tên nó tôi còn nhớ, nó là thằng Đồng. Hội Chợ thì thường có nhiều trò chơi, vậy mà tôi chỉ nhớ là có một gian hàng nhỏ có dựng sân khấu cho mọi người thi hát, tôi đã leo lên và hát bài “Thơ Ngây”…. Khi ấy em còn thơ ngây, đôi mắt chưa vướng lệ sầu …, rồi leo xuống lủi mất tiêu. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi cất tiếng hát. Lúc còn học nội trú St Marie, tôi cũng được lên sân khấu, chỉ đội lốt làm con thỏ mà thôi, nhưng trước đó, trước đó gần chục năm…

….Tôi sinh ra vào một buổi chiều ngày 6 tháng 3 năm 1945 tại nhà thương Bạch Mai. Ba ngày sau đảo chính Nhật, dân Hà-nội sơ tán về các vùng xa thành phố, bố mẹ tôi cũng mang chị em tôi chạy ra khỏi Hà-nội.Mới có 3 ngày, tôi làm sao biết được những gì đã xảy ra nhưng khi hơn 1 tuổi, tôi đã nhận biết và nhớ cho đến ngày hôm nay và một vài sự việc mà lúc nào tôi cũng tưởng như còn rất mới… Hai chị em chúng tôi được gánh đi, mỗi đứa ngồi một cái thúng, chị Yến được chú Tích cõng. Cùng vài người nữa, cả nhà tôi cứ xuyên rừng, lội sông, lội suối, trèo đồi, trèo núi mà đi. Một ngày trên đường đi gặp ngôi chùa hoang, mẹ tôi đặt tôi nằm trên cái bệ cao và kết quả là tôi ngã xuống giập cằm vào cái bệ xi-măng. Vết thương sâu lắm, ăn cơm lòi cả cơm ra ngoài. Bố tôi lấy vải trắng băng lại và buộc trên đầu. Vết sẹo khá dài vẫn còn đây. Bố tôi đã làm dữ vì với ông, tôi là…hòn ngọc đen yêu quý của ông.

Cả nhà tôi cứ đi mãi như thế, càng ngày càng xa Hà-nội. Chỉ thấy rừng và rừng. Đoàn người đi cùng với gia đình tôi thưa dần, chẳng biết họ đi đâu. Một lần qua sông trên một cái mảng ghép bằng các thanh tre, lúc chuyển đám trẻ con xuống, tôi là đứa bị rớt xuống sông, chắc không phải là sông vì tôi còn nhớ nước ở đó có màu như đen, đen một cách kỳ cục lắm chứ không phải là xanh thẫm khiến mình tưởng là đen. Bố tôi nhảy xuống vớt tôi lên và khi qua tới bờ bên kia mới biết được cái người chèo mảnh đó chuyên giết người lấy tiền vì anh ta biết là dân Hà-nội sơ tán, ít nhiều gì cũng có tiền hay vàng. Qua suối cũng khổ, bố tôi phải cột dây thừng ngang bụng, mọi người ở lại giữ đầu mối dây, bố tôi lội qua con suối rộng, nước đổ từ trên cao tung toé dữ dằn, sùng sục giữa những tảng đá đầy rên trơn trợt. Qua tới bờ bên kia, bố tôi tìm cây cột dây rồi lại lội ngược trở qua. Người lớn buộc trẻ con trên lưng và cứ nắm sợi dây ấy lần từng bước. Tôi là người được bố cột trên lưng.

Có những ngày qua khỏi cánh rừng lại thấy làng mạc ruộng vườn. Trời thì rét. Bố tôi ủ tôi trong chiếc áo Trấn Thủ dầy cộm vào những trại gà, tìm những cái trứng mới đẻ còn ấm, bố chọc 2 đầu trứng cho tôi húp sống. Có những chiều bố công kênh tôi trên vai đi giữa những ruộng lúa xanh rì, ghé vào quán lá, mua cho tôi cái kẹo bột nhỏ xíu, tôi cứ ở trên lưng, trên vai ông và bố tôi vừa đi vừa nói …bố đánh ton – ton đánh bố …Hết trại gà, hết nhà cửa ruộng vườn, gia đình tôi lại xuyên rừng mà đi. Tôi nhớ có một đêm, trời tối lắm, chẳng ai nhìn thấy ai, tất cả nằm mọp ở một cửa rừng ngong ngóng nhìn vào đêm tối… lâu lắm, lâu lắm…bỗng có ánh đèn loé lên ở xa chớp tắt 2,3 lần, thế là bố tôi lại ôm tôi lao theo hướng ánh sáng đó. Tất cả mọi người đều chạy, ngậm tăm mà chạy… Sau này, mẹ tôi bảo để tránh Tây và tránh cả Cộng sản nữa, vì gặp phe nào lúc đó, mình cũng chết.

Từ lúc chạy khỏi Hà-nộ, tôi mới có 3 ngày tuổi.Tôi lớn lên dần trong rừng sâu, ăn khoai sắn độn cơm vì chỉ bố tôi là được ăn cơm trắng. Tôi lớn lên trên lưng, trên vai, trên chiếc áo Trấn Thủ của ông và quan trọng hơn cả là trong tiếng đàn, tiếng hát của ông. Tôi không còn nhớ ông hát hay ra sao nhưng chắc chắn là không dở và tiếng đàn của ông, tiếng đàn măng-đô-lin cùng với tiếng hát…Trên đồi xanh, chiều đã xuống dần. Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng… đã đi vào trái tim non nớt của tôi và ở lại đó vĩnh viễn. Chắc chắn ông cũng không thể ngờ rằng, những ca khúc ông hát cho đứa con gái xấu xí của ông ngày đó, lại có lúc mở ra cánh cửa định mệnh gần như dành sẵn cho nó, đứa con chịu nhiều thiệt thòi nhất trong gia đình, chắc chắn bố tôi cũng không hề nghĩ rằng, những ca khúc buồn bã ấy sẽ ảnh hưởng như thế nào trên cuộc đời của tôi. Bố tôi lại càng không bao giờ nghĩ đến cái lúc ông nằm xuống và ra đi trong cơn điên loạn, không một người thân bên cạnh, trong trại tù Lý Ba Sơ, giữa rừng thiêng nước độc. Những câu nói cuối cùng trong cơn điên loạn vẫn cứ là lời ông dành cho vợ con mà tôi là đứa con ông thương nhất.

… Từ chương trình Pháp tôi được học 5 năm tại Hà-nội, nay chuyển qua chương trình Việt, tôi chẳng hiểu gì. Kể ra thì vô lý vì tôi học lại từ đầu nghĩa là từ lớp Năm, có gì khó khăn, mà không thể hiểu được, nhưng rõ ràng là, chữ nghĩa không hề chui vào đầu tôi ngoài môn học thuộc lòng. Tôi nhớ ngôi trường cũ đẹp thênh thang, cái sân chân vuông vứa có một cây xoài khá lớn ở một góc. Tôi nhớ cái buồng ngủ như trại lính với 3 dãy giường giống hệt nhau. Mỗi chân giường là một cái ghế trên đó để sẵn chiếc váy xanh nước biển đậm, áo sơ-mi trắng bóng có dây cài ngang và đôi vớ trắng. Màn trắng, chăn gối, niệm trắng. Đêm đến các sơ Pháp bỏ tóc dài quá lưng, tay cầm tràng hạt vừa đi vừa kiểm soát, vừa đọc kinh. Lạy Chúa, trong đời tôi, tôi chưa thấy hình ảnh nào đẹp như thế.

4 giờ rưỡi sáng, những mái tóc dài đã biến mất dưới cái lúp trắng. Bà đứng đầu phòng vỗ tay đánh thức chúng tôi. Chỉ 15 phút làm vệ sinh thôi, chúng tôi dù còn tiếc giấc ngủ cũng chẳng thể làm sao hơn, nhỏm dậy làm giường rất nhanh rồi túa nhau vào phòng tắm. Mỗi đứa có riêng đồ vệ sinh cá nhân. Một chậu rửa mặt men trắng, khăn mặt, bàn chải đánh răng, cốc. Tất cả một cỡ và giống nhau như quần áo, vớ giầy. Sau 15 phút, chúng tôi lại túa xuống lầu như một bầy vịt con. 2 chiếc bàn dài đầy mũ nồi đủ màu sắc, mạnh đứa nào chụp được cái nào thì chụp, đội lên đầu rồi tất cả theo nhau vào nhà nguyện của trường dự lễ sớm nhất của ngày. Đó là lễ Misa. Lễ xong, chúng tôi qua phòng ăn sáng, rồi bắt đầu một ngày học. Tôi không có gì xuất sắc nhưng cũng như những đứa trẻ lớp một bình thường bắt đầu bằng a, b, c nhưng chúng tôi được dạy tổ tiên chúng tôi là người Gaulois. Tôi cũng tin như thế. Tôi và chị Yến được mẹ tôi cho học piano. Khốn nạn cho tôi, sao ngày ấy tôi ngu và nhát thế hay tại các thiên thần của tôi đánh dữ quá, mười đầu móng tay bé bỏng của tôi mà mấy bà sơ chẳng thương xót gì, cứ roi mây mà quất. Thế là con bé sợ quá… xin mẹ cho thôi… Thật chưa có cái ngu nào giống cái ngu nào. Cả hai chị em cùng thôi. Chúng tôi được dạy cách ăn, cách ngồi ăn. Được dạy cách đi với cuốn sách dày cợm trên đầu… Nghĩa là đủ cả để sẵn sàng trở thành đầm con.

Tôi nhớ thương sâu đậm những năm tháng ngắn ngủi bởi với tôi đó là một trong vài khoảng đời đẹp, hạnh phúc và đau buồn nhất … Nỗi nhớ mong hình dáng to lớn, xinh đẹp của mẹ mỗi chiều thứ sáu đến mỏi mòn tuyệt vọng. Nước mắt vòng quanh, tôi tủi thân lấp ló, thèm thuồng nhìn các bạn hớn hở tung tăng theo chân bố mẹ rời trường. Cả một ngôi trường to lớn bỗng trở nên vắng lặng. Sự im lặng khiến tôi cảm thấy ngôi trường dường như lớn lên gấp trăm lần và những tiếng đọc kinh rầm rì của các sơ thường ngày rất nhỏ như tiếng mẹ ru con, chiều thứ sáu cũng như cao hơn, vang vọng trầm bổng trong không gian, như muốn sưởi ấm những trái tim non nớt cô đơn, ngăn những dòng nước mắt tủi thân đừng rơi xuống quá sớm.

Mẹ tôi phải làm việc ở xa để kiếm tiền nuôi mấy chị em tôi - Ngọc Anh mới được sinh ra vài tháng sau khi mẹ nghe lời bố mang chúng tôi từ biên giới Trung Hoa trở về Hà-nội tìm người bảo lãnh bởi lúc đó, Pháp đã nắm chính quyền. Cộng sản cũng thành lập Đảng - Bố tôi không muốn theo Cộng sản nhưng đã từng chống Pháp, giờ khó an toàn nếu không có người quen biết bảo đảm - Mẹ được bố tôi – bây giờ - giúp đỡ công việc buôn bán và vì thế khi chúng tôi đến tuổi đi học, mẹ gởi hai chị em tôi vào nội trú, còn anh tôi ở với bà nội. nhà 106 Hàng Bông…., tiền học hai chị em tôi gần 50 ngàn mỗi năm là một số tiền không phải nhỏ, không phải ai cũng có và cũng dám làm. Giờ nghĩ lại, tôi thương sự hy sinh của mẹ, tôi hiểu vì sao có những chuyện khiến tôi đau lòng xảy ra. Tôi hiểu. Tôi hối hận vì có những lúc… không phải với mẹ dẫu lòng tôi vẫn buồn đau vì sự mất mát tình yêu của người cha là điều không thể thay thế được – không ai có thể làm được điều đó nhất là với tôi.

Mê hát do thừa hưởng dòng máu văn nghệ của cha nên khi nghe Saigon tổ chức cuộc tuyển lựa ca sĩ nhi đồng, tôi không thể gạt bỏ ý nghĩ liều lĩnh của một đứa bé gái mới trên 10 tuổi. Tôi chỉ nói điều này với anh vì anh Sơn cũng thích hát, thích vẽ. Anh hứa sẽ không cho bố mẹ biết nhưng cả hai chúng tôi đều biết rõ, biết rõ hậu quả của sự việc vì không thể nào bố mẹ tôi không biết đến sự vắng mặt của tôi. Mẹ tôi vốn là em út trong một gia đình có 3 chị em gái. Khi di cư, bác Tư tôi ở lại với bà ngoại. Gia đình bác Tuất tôi ở Saigon mà bác gái lại rất thương tôi. Bác Tư ở lại Hà-nội có anh Hùng, anh Tín sau này còn có thêm anh chị nào thì tôi không biết, nghe nói hai anh tôi đều đã đi học và tốt nghiệp ở nước ngoài. Cả hai anh có vào Saigon tìm gia đình tôi một lần rồi thôi, không liên lạc gì cho đến bây giờ. Mẹ tôi đã tiếp đãi các anh theo đúng tinh thần Quốc-Cộng. Điều đó có lẽ khiến hai anh buồn lòng. Không có lần thứ hai. Tôi trách mẹ vì dù Quốc hay Cộng cũng không thể cắt đứt tình máu mủ ruột thịt và chẳng hiểu vì sao, ngay cả chị Yến tôi dù ở lại, dù đã đi Hà-nội chơi mấy lần, cũng không tìm thăm lại các anh em của mình và mộ của ông bà ngoại.

Nhưng năm đó thì gia đình bác Tuất ở Saigon.Các chị Tuyết, Kim, Oanh, Nghiệp, anh Bảo, anh Toàn đều hát hay và vì bác Tuất trai sử dụng kèn Clarinette từ trước di cư. Tôi tin bác sẽ cho tôi ở vài ngày và che chở cho tôi. Thế là tôi quyết định ra đi. Mượn quần soọc, áo sơ-mi của anh, tôi tới bến xe hàng chuyên chở rau xin quá giang. Đêm đó, tôi nằm sau xe tải ôm đám bắp cải ngủ cho tới khi xe tới Saigon. Ông tài xế già tốt bụng còn dặn nếu muốn trở lại, cứ tới bến tìm, ông sẽ cho trở về. Tôi không nhớ rõ nhưng chắc chắn gia đình bác Tuất đã ghi tên cho tôi dự cuộc thi tuyển đó. Em bé Lệ Mai ghi danh bài “Từ Giã Kinh Thành” nhưng bị từ chối. Con nít không được hát bài đó.Tôi nhớ ngay đến “Ngày Trở Về” của ông Phạm Duy và được chấm đậu hạng nhì, thế thôi nhưng đủ làm tôi sung sướng đến có thể chết đi được và không cần biết chuyện gì đang chờ đón tôi ở nhà. Nửa thế kỷ đã trôi qua, không biết còn mấy ai nhớ đến con bé đen ngòm, tóc tém, mặc quần soọc trắng, áo sơ-mi ca-rô xanh… hùng dũng hát “Ngày Trở Về” trong buổi thi tuyển ca sĩ nhi đồng tại rạp Norodom. Đối với tôi, dẫu sau đó bị một trận đòn thê thảm, tôi vẫn cho rằng việc làm liều lĩnh của tôi ngày đó là đúng, không có gì, không còn gì đúng hơn.
CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 3
Ở Đà Lại được một năm, gia đình tôi lại chuyển xuống Sài Gòn. Chúng tôi dồn vào một căn nhà khá xinh trên đường Sương Nguyệt Ánh mà nhiều năm sau đó nữ nghệ sĩ Kiều Hạnh, rồi cô Thái Thanh dọn về. Cạnh đó, đường Bùi Thị Xuân, là nơi bà nội sau, tức là mẹ dượng tôi, cũng là nơi vợ chồng ông Lân cô Thanh Nga bị sát hại ngay trước cửa. Ông Đồng Lân là em ruột bố dượng tôi nên tôi gọi cô Thanh Nga bằng Thím. Nhưng đó là chuyện về sau.

Trong cái cư xá gồm khoảng 10 căn, tôi cùng đám trẻ con không phân biệt Bắc Nam cùng chơi trò …tạc hình dù mẹ tôi ngăn cấm. Bà thường tặng tôi những trận đòn nhớ đời mà tôi chẳng hiểu lý do vì sao. Tự nhiên mẹ tôi lôi ra đánh, bắt xin lỗi. Tôi có lỗi gì đâu mà xin. Đánh nữa cho bỏ cái tật lì lợm. Không khóc hả, đánh nữa, đánh nữa. Tôi không bao giờ khóc ngay lúc đó, thường là sau mỗi trận đòn, tôi trốn trong nhà tắm hoặc đầu ngõ, kiếm một chỗ khuất để khóc một mình và những lúc ấy, tôi nhớ Bố tôi biết bao nhiêu. Ừ, nếu có Bố ở đây, mẹ sẽ không bao giờ đánh tôi như vậy.

Mấy người chị họ như chị Tuyết, chị Kim đều được bác Tuất cho đi hát. Chị Yến tôi cũng được đi hát theo, và người để ý đến chị Yến chính là nhạc sĩ Lam Phương, bấy giờ ông vừa làm xong bài hát “Khúc Ca Ngày Mùa”. Tôi không còn nhớ các chị hát ở đâu bởi lúc đó, Sài Gòn chưa có một phòng trà nào, mà dẫu có, các chị cũng chưa đủ tuổi để vào những nơi đó. Điều đó chứng tỏ là mẹ và dượng tôi (từ nay tôi sẽ gọi dượng bằng bố) không hề có ác cảm với việc con mình đi hát. Chuyện hát hò có lẽ chỉ nghiêm khắc đến nghiệt ngã đối với tôi, mà cho đến bây giờ lý do tại sao tôi vẫn không hiểu.

Lại dọn nhà nữa, có lẽ vì ở gần bà nội, mẹ tôi cứ bị ông em của bố tôi qua tận nhà chửi bới, thậm chí còn xông vào muốn đánh mẹ. Ông này là em dưới ông Đổng Lân…trong có 2 năm, dọn nhà 3 lần, tôi mất trắng những ngày được đi học. Tuy vậy, tôi cũng lờ mờ hiểu được rằng… bên nội sau không thích mấy anh chị em tôi, nhất là không ưa mẹ tôi chút nào, không tán thành cuộc hôn nhân của bố mẹ. Có lúc tôi hỏi mẹ… Sao mẹ không nhận lời cái ông Tây yêu mẹ và yêu cả các con. Cái ông Toàn Quyền ở Hà Nội ấy…Mẹ tôi cười. Ôi! tình yêu. Thì ra mẹ tôi yêu bố tôi, quên đến nỗi quên hẳn bố ruột tôi đang trông chờ tin tức của vợ con, quên hẳn mình đã có 3 đứa con, quên luôn rằng lúc đó bố tôi đang ở với bà Lan Phương (em bà Ái Liên, dì ruột của ca sĩ Ái Vân).

Nhà chúng tôi nằm cạnh Nha Quân Nhu đường Trần Hưng Đạo. Lúc này, tôi đã vào nếp như ý mẹ tôi mong muốn, nhưng tôi chẳng làm sao quên được hình ảnh của một buổi chiều mẹ đến mẹ đến nhà bà nội tôi ở Hàng Bông. Sau khi nói chuyện với bà nội, mẹ bảo với chúng tôi ….Bố các con chết rồi. Hôm đó mẹ rất đẹp, mẹ mặc áo dài mút-sơ-lin màu tím hoa cà, có những chấm tròn trắng, quần đen, kính đen và to.Tóc mẹ chảy ngược ra sau, bới lại. Mẹ, hôm đó đẹp lắm. Mẹ tôi lúc nào cũng đẹp. Bà không chịu được cái gì xấu, không chấp nhận cảnh nghèo, không chịu thua kém ai và dĩ nhiên, bà muốn các con của bà nếu không theo kịp cũng có phần nào cái đẹp của bà, dẫu bà nợ nhiều lắm. Mẹ tôi vẫn cứ, bà vẫn cứ là cái đinh trong mắt … 2 bà nội của chúng tôi.

Như thế, tôi có hai bà nội. Ngày giỗ bố tôi, mẹ và các em tôi đều có mặt… ăn giỗ Bố Viễn… các em tôi bảo nhau như vậy. Chúng tôi sống chung hoà thuận, không hề có chuyện Bố tao, Bố mày bởi chúng tôi cùng một mẹ sinh ra. Với tôi, cho dù bố mẹ không thương cũng không hề tị nạnh ganh ghét các em. Một gia đình, thoạt trông vào quả là hạnh phúc qua những đứa con, nhưng vẫn có những cơn sóng ngầm dữ dội. Bố Viễn tôi ngày xưa yêu và bằng mọi cách cưới mẹ cho được. Gia đình nội tôi khá giả. Bố tôi học trường Tây đến hết trung học, ông đi Hongkong. Tôi không hiểu rõ ông đến Hongkong làm gì nhưng bà nội cho biết ông nói được 7 thứ tiếng Tàu, tiếng Mỹ. Một thời gian làm việc với Nhật nhưng sau đó, ông theo phong trào chống lại Pháp. Vậy việc ông đi Hongkong có liên quan gì đến đảng cộng sản được chính thức thành lập sau này hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng hơn là bố cưới mẹ tôi ở Hongkong. Khi hai ông bà trở về, mẹ đã có thai và bà nội tôi đành phải cưới vợ cho con, người con độc nhất của bà.

Theo lời mẹ kể, bà nội tôi là người nghiệt ngã, ông nội thì nhu nhược hiền lành nhưng vẫn có thêm vợ. Bà tôi khai thác mỏ phốt phát và nuôi cả nhà. Mẹ bảo …Bố tôi là người hiền như cục, bố rất tốt với bạn bè. Ai xin gì cũng cho. Cho hết quần áo của mình, về nhà lấy quần áo của ông nội, cho luôn. Đi làm nhưng chẳng bao giờ ông mang tiền về nhà. Mẹ có hỏi ông bảo …cho hết rồi. Bà nội và mẹ tôi không phàn nàn gì trước cái lối vung tay của cậu Ấm. Bà tôi kể… Năm đó, bà đã 26 rất giỏi giang công việc buôn bán dù không biết chữ nhưng muộn chồng vì bà không được đẹp (Mẹ thường bảo tôi giống bà nội). Ông nội nhà giàu, không có con trai, nhờ người mai mối thế là bà tôi về làm lẽ. Một hôm bà đang ngồi trước cửa, có ông thầy bói đi qua, bà tôi đang phiền muộn về nỗi chậm con bèn nhờ ông ta coi, bà cũng kể lể nỗi niềm hiếm muộn của mình. Ông thầy nói với bà rằng… Bà sẽ có một người con nhưng người con này sẽ không ở với bà lâu vì tiền kiếp của đứa bé này là một người Tàu, ông này làm quan và chết trẻ… Thế rồi bà tôi sinh bố tôi và chỉ một lần đó thôi.

Tôi không quan tâm đến chuyện giàu có của bà nội và khi gặp mặt lần đầu tiên tôi đã 5 tuổi rồi. Bà nội ở một mình, 106 Hàng Bông. Nhà rất rộng, căn ngoài bà mở depot nước đá, căn thứ hai có một cái giường lớn, cái bục thì đúng hơn, lát đá hoa, trưa hè Hà Nội nóng nực, nằm xuống, sướng không chỉ cái lưng. Qua một khoảng sân rộng ngổn ngang những dụng cụ điện làm bằng sứ trắng tới phòng của bà và chúng tôi. Lại một khoảng sân đầy dụng cụ nữa, mới tới nhà vệ sinh. Sau khi hồi cư, mẹ để chúng tôi ở với bà, còn mẹ đi buôn bán, nghe đâu ở Hải Phòng. Tôi rất ngại đến gần bà vì bà tôi rất nghiêm, ít khi hỏi tới các cháu và luôn luôn có ác cảm với mẹ tôi. Phần tin tức bố tôi cứ mù tăm, hoặc là bà có biết, mẹ có biết nhưng nghĩ chúng tôi còn bé dại, có nói cũng vô ích.

Tôi bị nhức trong xương, bà bảo là tê thấp, phong thấp gì đó và từ nhỏ, tôi đã phải uống những chén thuốc Bắc đắng nghét. Dù bà không nói nhiều với chúng tôi nhưng bà săn sóc rất đầy đủ. Bà hay nấu cháo hoa cho tôi ăn với đường, bà cho anh Sơn ăn cao ban long, cao hổ cốt do chính bà nấu và bán. Bà tôi còn biết làm xà bông nữa, những thỏi xà bông màu xanh được cắt vuông vức. Bà còn chơi hụi và thỉnh thoảng bà dắt chúng tôi đến những buổi lên đồng, gọi là “lấy lộc”, tụi tôi rất khoái cái màn này. Uống thuốc Bắc, ăn sáng bằng cháo hoa, đi xem lên đồng và nằm ngủ trưa trên cái giường lát đá hoa cho đến lúc mẹ cho chị Yến và tôi vào nội trú. Tôi không hiểu vì sao mẹ không gởi anh Sơn theo chương trình Pháp nơi trường bố tôi đã học. Chắc mẹ có lý do riêng. Tôi thắc mắc không hỏi để đến bây giờ thì quá trễ rồi.

Gần như chúng tôi chỉ được mẹ đón một lần mỗi tháng. Mẹ đón, nhưng lại đưa chúng tôi về nhà bà nội, rồi lại đi mất. Tôi đã quen sự ơ hờ của mẹ và những ngày cuối tuần của tôi rất thần tiên. Tôi không phải bưng đĩa rau dền xay nhuyễn với bơ lên văn phòng của Bà Nhất để vừa khóc vừa ăn, tôi gọi món đó là …cứt trâu. Về với bà nội dù chỉ 2 ngày, tôi tung tăng chạy khắp phố Hàng Bông, được ăn bánh mì paté gan cháy, xôi lúa hoặc thơ thẩn trước các cửa hàng nghe lóm nhạc. Tôi biết nghe “Bà Mẹ Quê, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê…”. Tôi quen cái vị đắng khó uống của những thang thuốc Bắc và thích đặt lưng lên cái sạp lót đã hoa, mát đến lạnh người. Mỗi tháng chỉ uống thuốc được 4, 5 lần nên tôi ôm cái bệnh gọi là phong thấp cho đến bây giờ và cũng một phần vì nó, tôi làm quen với thuốc ngủ.

Nhạc của Phạm Duy và của các ông nhạc sĩ thời bấy giờ đã len lỏi ấn núp trong trí nhớ thơ dại của tôi từ những ngày lang thang trên con phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Ra khỏi nhà, nếu đi thẳng, tôi sẽ đến bờ hồ. Rẽ tay phải là Hoả Lò. Rẽ trái tới phở Phú Xuân và rạp xi-nê Kinh Đô. Thời đó, chúng tôi hay sưu tầm program in mầu đẹp lắm và tôi nhớ mãi cái phim Ấn Độ “Magala cô gái Ấn”. Ôi! cái phim buồn làm sao, tôi khóc quá sức khi thấy trên màn ảnh hai người vừa khóc, vừa hát vừa chia tay nhau. Tôi cũng được xem phim “Cô Gái Việt” mà tôi nhớ bài hát chính của phim… Lời sông núi bừng vang bốn phương trời… Trong những ngày cuối tuần đó, tôi cũng đến ở với bác Tuất. Nhà bác ở ngay cạnh Quốc Tử Giám. Chỉ băng qua đường, tôi có thể vào leo lên lưng mấy con rùa to tướng bằng đá. Đêm đến cả nhà kéo đi xem cải lương. Tất cả chục mạng chất trên một chiếc xích lô. Tôi thích cô Kim Chung, Bích Hợp, Kim Xuân và danh hài Tứ Vững, Phúc Lai. Tôi cũng mê cải lương từ đó. Nghĩa là cái gì có ca, diễn là nó đi thẳng vào đầu tôi.

Bố mẹ tôi có ngôi biệt thự lớn lắm. Cả một con đường toàn những biệt thự có chó bẹc-giê, có người da đen gạch mặt giữ nhà, tụi tôi thường chọc phá rồi chạy trối chết về nhà. Tôi không nhớ tên đường nhưng nó nằm ở gần Hồ Tây và cũng gần vườn Bách Thảo. Tôi vào vườn lượm những trái chi chi nhỏ xíu đỏ tươi hoặc ra lội xuống đền Ngọc Sơn… Nếu dòng đời cứ êm ả trôi như thế, tôi đã trở thành một bà sơ vì cho dẫu các thiên thần đã dùng roi mây đánh vào các ngón tay tôi, dù có bắt tôi lên văn phòng cho hết cái món …cứt trâu, co la mắng chúng tôi…Các vous có muốn làm cái thứ trèo me, trèo sấu ấy không? Hình ảnh các bà sơ thật là đẹp đẽ. Nếu bố tôi không chết, nếu không có cuộc di cư và nếu mẹ tôi cho tôi tiếp tục học trường đó – sau di cư dọn vào Đà Nẵng – thì có lẽ cuộc đời tôi đã theo một hướng khác. Nhưng một là mẹ không chú ý đến tôi, hai là sau di cư, gần như đa số trắng tay. Nhà không giàu lại đông anh chị em, sẽ có đứa bị thiệt thòi. Điều này thường xảy ra. Ác ở chỗ, nó lại rơi trúng tôi.

Ở Trần Hưng Đạo, kế ngã tư Trần Bình Trọng, tôi học trường tiểu học Cầu Kho. Không ai khảo sát sức học của tôi, cứ theo tuổi xếp lớp thế là tôi cứ ngày ngày lội bộ đến trường, chẳng học được gì chỉ để rệp cắn nát hai bên mông và đùi. Tôi không dám nói với thầy cô rằng tôi chẳng hiểu gì ngoài môn học thuộc lòng, mà thầy cô cũng không thấy cái dốt của tôi. Về nhà, chẳng ai chú ý đến chuyện học của tôi cả. Rồi chị Yến lấy chồng, người này quen với bố tôi, đến nhà thấy chị hiền lành đẹp đẽ, giỏi giang bèn sớt đi. Tôi biết chắc chắn chị tôi không yêu anh ta nhưng ở nhà chị khổ quá. Không được đi học nữa, phải chăn một lũ em, phải phụ với u già làm hết mọi việc. Chị cho rằng đi lấy chồng là thoát ra khỏi cái cảnh khổ. Bố tôi bằng lòng. Mẹ tôi thì không. Đám cưới chị Yến đơn giản đến độ giờ tôi không còn nhớ. Cái điều đáng nhớ nhất là ngày đó, mẹ tôi la mắng chị dữ lắm. Chị chỉ ngồi nghe và khóc. Tôi thường tự hỏi tại sao mẹ lại có hành động như vậy. Mẹ thương, không muốn rời xa chị vì chị mới 16 tuổi hay vì mất chị, mẹ như mất một cánh tay, nói rõ hơn mất một người làm việc giỏi?

Chị tôi khóc trong ngày cưới và khóc cả cuộc đời làm vợ, làm mẹ. Những giọt nước mắt rơi xuống, không phải để khóc cho hạnh phúc. Chị tôi đi lấy chồng và đó là lỗi lầm lớn nhất, duy nhất chị vấp phải. Một lần cho một đời. Chị tôi đi lấy chồng. Lấy người đàn ông đầu tiên chị quen. Chị tôi còn trẻ dại, chưa biết gì về tình yêu. Nói đúng hơn, chị không hề yêu, không biết tình yêu nó như thế nào. Bây giờ trên 60, chị tôi vui với 5 đứa con và một bầy cháu nội, ngoại. Tính chị đơn giản, không biết giận hờn ai bao giờ, nếu có thì có lẽ là người đã tặng chị 5 đứa con.
CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 4
Thế là chị tôi đi lấy chồng. Lấy chồng ở cái tuổi còn thơ, chưa biết tình yêu là gì. Chưa biết ngoài gia đình, cuộc đời xoay dần ra sao. Hơn 40 năm sau hỏi, chị bảo… Thì ai mà biết gì, bố mẹ bảo lấy, bắt lấy thì phải lấy, thế thôi… Tại sao lại thế? Tại sao lại có một tâm hồn, một con người đơn giản như thế? Chị vẫn cứ cười xem như chẳng có gì là quan trọng. Mà cũng phải thôi, các con chị đã lớn. Chị không còn trẻ. Không, 27 năm trước chị còn trẻ mà dường như không bao giờ chị nghĩ đến cả chuyện… làm lại bởi một lẽ đơn giản, chị không biết yêu, nên chị sống với các con và bây giờ là các cháu.

Tưởng chị là người không may hoá ra chính chúng tôi mới là những đứa không may. Nhìn chị bây giờ, tôi tự hỏi… phải chăng ngoài cái không biết yêu, hình như chị cũng không bíêt đau khổ là gì. Ngày xưa, chị Yến chỉ có độ hai, ba người bạn cùng xóm, giờ chị có nhiều bạn, chị “ăn hụi” cùng nhóm bạn già nay đi Thái Lan, mai đi Hà Nội chơi Chùa Hương, vịnh Hạ Long. Chị có thể đi bất cứ nơi nào chị muốn không cần xin phép ai. Chị luôn vui cười như trẻ thơ không hề biết lo âu. Tôi về, chị đeo theo tôi quên cả con dâu vừa sanh, đến nỗi tôi phải nhắc để chị nhớ là chị vừa có thêm một đứa cháu nội. Chị theo tôi, có những hôm tôi ngồi cả ngày với ông TCS chẳng nói năn gì, mà có nói, chuyện chúng tôi chị đâu có hiểu nhưng chị vẫn đi theo không hề phàn nàn, kêu ca mệt mỏi.

… Sau khi em đi rồi, chị đi bán chợ trời, cái gì bán được là bán. Lão ấy bỏ chị và mấy đứa con bơ vơ. Rồi mất nhà, mấy mẹ con lăn lóc, nay ngủ nhờ chỗ này, mai nhờ chỗ khác. Mẹ thì khó tính, ở không được lại xách con đi. Một hôm chị gặp một ông thầy – tôi quên không hỏi chị là Thầy nào, Công giáo hay Phật giáo – lan man kể lể tâm sự khổ sở của 6 mẹ con, bất ngờ ông Thầy nói… tưởng ai chứ chị là chị của cô Khánh Ly, ngày trước cô ấy thường hát giúp chúng tôi để gây quỹ nuôi các trẻ mồ côi tàn tật, thôi thì bây giờ tôi để lại cho chị mảnh đất và căn nhà này, chị trả góp cho tôi tới bao giờ hết thì thôi… Miếng đất khá rộng và căn nhà thì gần như đổ nát trị giá 10 cây vàng - dẫu có đổ nát cũng là cái nhà, có chỗ cho mấy mẹ con chui ra chui vào – và rồi với những gói quà 2 pounds tôi chắt chiu gởi về, lần hồi chị cũng trả được hết món nợ đó.

So với căn nhà bị tịch thu của chị, dĩ nhiên là không bằng nhưng tôi lại thích bởi cái vẻ nghèo nghèo, nho nhỏ của nó… Em không dư tiền gởi về cho cả gia đình, chỉ có thể mỗi năm gởi một lần cho Yến mà thôi. Các cháu lớn hết, đã có gia đình công ăn việc làm, không giầu nhưng đủ sống và như thế nay, Yến sống sướng hơn tụi em nhiều lắm… Chị biết, chị nghe nói mấy em ở Mỹ làm việc cũng cực khổ lắm. Chị không thiếu gì vì các cháu. Tiền em gửi, chị để dành lúc về già hay bịnh hoạn… Bao nhiêu năm rồi, từ một thiếu nữ nay thành bà nội, bà ngoại, chị tôi vẫn hồn nhiên… không biết tiền là gì, nói gì đến tình yêu.

Chị không tha thiết đến việc đi Mỹ… Chị chỉ muốn đi một lần cho biết rồi về chứ ở bên ấy làm gì… Yến ạ, em giờ chưa đủ điều kiện để cho Yến đi du lịch thăm thú nước Mỹ nhưng mấy chị em ở đây góp lại cũng chẳng khó khăn gì… Số chị lại không may. Hồ sơ nộp theo diện bảo lãnh mà bây giờ xin du lịch thì …hỏng rồi. Chờ một năm nữa mở hồ sơ bảo lãnh thì chắc chắn là chị sẽ được đi nhưng cái chính là chị tôi không muốn qua đây rồi … ở lại đây. Tôi cũng hiểu một người như chị dù có ăn học, dù ngày xưa này mặc áo lụa vàng lái “xế hộp” chạy phăng phăng trên xa lộ khiến có lúc nhà văn Nguyễn Đình Toàn… suýt đổ nhưng hơn 20 năm, dẫu trãi qua lắm hồi bỉ cực, đời sống chị ở quê nhà đã thành nếp, chị khó sống ở nơi khác, nơi không có những bạn bè cùng “ăn hụi” với chị, nơi chị mỗi tháng giúp đỡ cho 2 học sinh nghèo học giỏi.

Tôi rất thương chị, dĩ nhiên vì chị là chị ruột của tôi, nhưng đồng thời, tôi nhận ra rằng đừng thương hại chị bởi chị, con người chị đơn giản quá, chị không biết khổ đau hoặc chị không để khổ đau gậm nhấm giết hại tâm hồn vốn luôn hồn nhiên của chị… Trong nhà thường chép miệng… tội nghiệp chị Yến, lúc có tiền chẳng được hưởng gì… Đúng, đối với chị, hờn giận, hối tiếc là những điều không tìm thấy ở con người chị. Đơn giản, hồn nhiên vô tư hơn cây cỏ. Đó là cái mà chúng tôi không có làm đôi khi tôi hơn ganh tỵ mỗi khi nghe tiếng chị cười giòn tan qua điện thoại hoặc mỗi khi con chị cho biết… Mẹ con đi Thái Lan, đi Hà Nội chơi rồi… Sao chị sướng thế nhỉ. Cái phần thưởng Trời Đất dành cho chị lúc cuối đời thật là đẹp đẽ, tốt lành. Bởi chị sống tốt lành.

Chị cả đi lấy chồng thì cứ theo thứ tự từ trên xuống dưới. Con em kế tiếp những công việc chị thường làm là tôi. Nhà thì đông, chỉ có một u già theo bố mẹ từ Hà Nội vào Nam. Mẹ tôi giao hết công việc cho u già và chị Yến. Bà không hề làm một việc gì dù là xuống bếp lo nấu nướng cho bố tôi. Bà giao cho tôi 70 đồng đi chợ mỗi ngày. Trưa 4 món, chiều 4 món khác nhau. Trời đất ạ! tôi đã có đi chợ mua bán bao giờ. Cái làn đi chợ thiếu điều còn muốn to hơn tôi nữa và không bao giờ tôi quên được cái cảm giác lần đầu tiên bước chân vào chợ một mình. Tôi cứ loay hoay vẽ lại trong trí nhớ những món ăn mà chị Yến và u già đã nấu… Canh dưa chua thì phải mua những gì, cà bung rồi thịt đông cần gì. Canh bầu canh bí, rau muống luộc hay xào. Đậu nhồi thịt rán hay đậu rán om cà chua…. cái đầu nhỏ xíu của tôi phải làm việc dữ dội để tránh khỏi bị đòn nếu không làm đúng những điều mẹ tôi dặn.

Lúc đó tôi học trường Cầu Kho. Trường cứ theo tuổi sắp lớp không hề khảo sát trình độ của học sinh, có lẽ họ nghĩ con nít không cần thiết, nên tôi vào ngay lớp nhì. Buổi sáng dậy sớm xách làn đi chợ, về giặt hai chậu quần áo, phơi phóng xong, ăn cơm rồi đi học buổi chiều. Nói là đi học chứ thực tình, tôi có học được cái gì. Lẽ đơn giản là tôi không có căn bản, tôi chẳng hiểu gì. Thầy giảng cứ giảng, tôi ngồi như vịt nghe sấm, chờ tới giờ về. Người anh thứ hai của tôi kế chị Yến, hơn tôi 2 tuổi, học trường Văn Lang. Anh Sơn cũng là người thông minh, thích nhạc, thích vẽ, mê nhảy đầm và nhiều bạn. Bạn của anh cũng tự nhiên trở thành bạn của tôi. Anh đưa về các anh nguyễn Đức Nam, anh Đinh Bù Loong (thân phụ của ca sĩ Diễm Liên), anh Nguyễn Ngọc Kiểm tức anh Ngọc Hoài Phương bây giờ. Trong tất cả các bạn của anh chỉ có anh Ngọc Hoài Phương là được bố mẹ tôi cho vào nhà, coi như con ruột. Còn những người khác, đang ngồi chơi, nghe tiếng xe của bố tôi là ù té chạy hết. Do đó, ngay từ nhỏ, tôi đã xem anh Ngọc Hoài Phương như anh ruột của mình. Anh gọi tôi bằng “chú” và tôi cũng gọi anh như vậy.

Tôi trượt tiểu học, khỏi nói cũng có thể hiểu được sự thất vọng và giận dữ của bố mẹ tôi. Có học được gì đâu mà đậu. Thầy giáo cứ giảng, tôi cứ ngồi đó lẩm nhẩm thơ Nguyễn Bính, hát thầm trong bụng cho đến hết giờ. Ngày đi thi cũng thế, tôi nào có tha thiết gì đến chuyện học hành, thi cử, vì vậy sau cuộc thi tiểu học, tôi vẫn đi học nhưng không thi cử gì nữa hết. Tôi đi học là bởi muốn đi ra khỏi nhà để khỏi phải nghe những lời mắng nhiếc của mẹ, cái nhìn hầm hầm giận dữ của bố, tránh những ngọn roi, những cái tát, những chiếc giầy đập túi bụi trên đầu trên cổ tôi. Mẹ gởi tôi vào nội trú trường Thánh Mẫu cũng chỉ được chưa gần một năm đã bị trả về vì tội leo trường trốn đi chơi với một trong những người bạn của ông Ngọc Hoài Phương. Hoàng là người tôi thích và cũng là người viết cho tôi những lá thư tình đầu tiên. Bao nhiêu thư mở đầu bằng hàng chữ “Bé Mai”. Tôi giao cho ông anh Ngọc Hoài Phương cất giữ. Mẹ bắt tôi vào nội trú chỉ vì một lần bố tôi bắt gặp Hoàng và tôi đi bộ với nhau trên đường Võ Tánh. Ông nhảy xuống giáng cho tôi một bạt tai giữa cái nhìn kinh sợ của Hoàng và những người đi đường. Kết quả bao giờ cũng thê thảm với sự đốc thúc của mẹ tôi.

Tôi không nghĩ là mẹ thích thú khi thấy con mìn bị đánh đập nhưng có lẽ bà khó chịu đựng được cái nết lì lợm của tôi. Mắng chửi, tôi cãi lại. Đánh đập, tôi không khóc. Bắt xin lỗi, tôi không mở miệng mà ý muốn của mẹ tôi gần như là ý Trời, không đứa nào trong nhà dám làm người lại lời bà phán, kể cả bố tôi. Mẹ không thấy được sự trưởng thành quá sớm của tôi từ cái chết của người Cha mà tôi rất mực tôn thờ. Bà không mường tượng ra được sự việc đó lại ảnh hưởng đến tôi nặng nề như vậy. Mẹ không đọc được những suy nghĩ trong đầu tôi, một đứa bé mồ côi cha luôn luôn mong ước được sự vuốt ve âu yếm của Mẹ, để bù lấp nỗi thiếu thốn lớn lao nó đã mất vĩnh viễn. Mẹ lại càng không đọc được trong tim tôi một nỗi hờn ghen uất nghẹn không thể nói thành lời. Tôi vẫn thương Mẹ, thương các em, một tình thương chân thật. Chị em chúng tôi sống từ đó cho đến bây giờ không hề có sự chia biệt nào. Tất cả đều sống cùng một mái nhà, có cùng một người mẹ. Song mẹ tôi dường như quên hẵn sự có mặt của tôi trong đám con đông đúc của bà. Suốt một đời tôi thèm khát vòng tay ôm ấp và những lời nói trìu mến của một người Mẹ. Tôi thèm tình thương, và phải chăng những bi thảm của đời tôi, bắt đầu từ sự thèm khát bình thường tội nghiệp này.

Sau trường Thánh Mẫu, tôi đổi trường liên miên. Một năm trường Việt Tiến. Một năm trường Hưng Đạo. Một năm Nguyễn Bá Tòng. Tôi không phải đi bộ hay đi xe bus. Bà nội mua cho tôi một chiếc xe đạp mà tôi luôn luôn chạy giữa đường chứ không bao giờ đi vào lối dành cho xe đạp. Đùng một cái, chiếc xe bị mất. Nó bị ăn cắp chứ không phải tôi sơ ý. Mẹ tôi bảo…mày cứ chờ đấy, bố mày về rồi mày sẽ biết. Tôi quỳ giữa nhà, bố tôi cầm chiếc giầy của ông đập túi bụi vào tôi. Mẹ tôi ngồi nhìn tôi bị đánh, thản nhiên, thỉnh thoảng thêm vào … đánh nữa đi, đánh cho nó chết, cho nó chừa đi, mất xe thì mày đi bộ, không có tiền đâu mà mua xe khác cho mày… Bố tôi vừa đi làm về mặt đỏ bừng vì rượu, được lời của mẹ, ông túm lấy tóc tôi, xoắn lại, tay kia tiếp tục giơ cao chiếc giầy. Tôi đau quá nhưng lạ lùng làm sao, tôi không hề khóc. Tôi khóc không được vì nỗi oan ức và nghĩ xe của bà nội cho và nào tôi muốn làm nó mất. Trong trái tim non dại của tôi chợt vang lên…. Bố ơi! Bố ơi! Bố ở đâu… và tôi cảm thấy một nỗi căm phẫn chưa từng có bùng lên. Anh Sơn và các em tôi chẳng đứa nào dám nói một câu, chắc chúng không hiểu vì sao tôi bị đánh như thế. Chúng còn quá nhỏ và chưa hề bao giờ bị đòn.

Tôi thường lẫn vào đâu đó để khóc một mình sau mỗi trận đòn. Càng bị đánh tôi càng lì đòn, không sợ nữa, không cảm thấy đau đớn nữa. Căm phẫn, tủi thân, tôi cứ làm những gì tôi thích trái ngược hẳn với ý muốn của mẹ. Anh Sơn và các bạn anh đi chơi, đi “Bal Famille”, tôi bu theo. Chẳng cần ai dạy, tôi nhảy rất giỏi, nhất là nhảy “be bop” nên thời đó bạn bè gọi tôi là “Mai bộp, Mai đen, Mai chân voi”. Tôi bất cần dù sau mỗi lần trốn nhà đi chơi là lại lãnh một trận đòn nhưng anh Sơn tôi thì không bị gì cả. Thời đó đi nhảy như một cách biểu diễn những bước nhảy mới chứ không hề có sự lợi dụng trai gái. Vả lại, mọi người đều xem tôi như một thằng con trai và tiếng nhạc trong những lần khiêu vũ đã làm thức dậy nổi đam mê ca hát tưởng đã chết trong những ngày tháng buồn bã. Lúc đó tôi chỉ mơ hồ cái cảm giác thích được hát thôi. Mẹ tôi bị đau nhức tay chân, ngày nào tôi cũng đấm chân cho bà và trong những lúc ấy, bà hay cho chạy những đĩa nhạc Tango. Tôi đấm chân cho mẹ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Mẹ tôi không hết nhức mỏi nhưng điệu nhạc Tango đã chui vào đầu tôi, đến nỗi những lúc mỏi tay quá, tôi đấm cho bà theo nhịp điệu Tango.

Anh Sơn biết tôi thích hát. Anh không ngăn cản mà hầu như tạo cơ hội cho tôi. Chính vì thế mới có những lần ở vũ trường Đồng Khánh, tôi dám leo lên sân khấu và từ ở đó, tôi nảy ra ý định tìm cho mình một cái tên. Tôi vốn mê đọc truyện từ nhỏ, nhất là Tam Quốc Chí và Đông Chu Liệt Quốc. Từ những chuyện đó, tôi tìm được 2 nhân vật Khánh Kỵ và Yêu Ly. Cái tên Khánh Ly có từ lúc đó…
CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 5
Từ thuở hồng hoang, thú vật đã biết tìm cho mình những hang ổ để sống. Là người, ai lại không muốn có một mái ấm gia đình, anh chị em quây quần yêu thương nhau, lẽ dĩ nhiên vẫn hơn những kẻ lạc loài không mái ấm tựa nương. Dẫu cho rằng tôi không thể yêu thương Bố Dượng như Bố ruột, nhưng nếu ông coi tôi như những đứa con của ông, điều đó sẽ an ủi tôi biết bao nhiêu. Với các em tôi, tôi yêu chúng, hay nói đúng ra, chúng tôi thương nhau như chị em cùng cha mẹ. Chúng còn nhỏ, chưa biết gì và ngay cả khi hiểu biết, chúng tôi cũng không hề phân chia… Bố chị… Bố em... Cũng chẳng bao giờ tôi quên ơn Dượng. Ông và Mẹ tôi cho tôi đi học đàng hoàng nhưng… lỗi tại tôi mọi đàng… Phần còn lại, tại ai, tôi không biết và chữ nghĩa đối với tôi như chuyện thần thoại, một điều không có thật.

Một năm nội trú trường Thánh Mẫu, tôi chỉ nhớ tên một người bạn, đó là chị Lài – đã lấy chồng và đi Pháp từ lâu – một chị nữa hiện là nữ tu, tôi vô tình gặp lại trong chuyến đi Vatican 1998. Phụng Hoà học chung với tôi ở Hưng Đạo. Em trai là Phùng Thuận vừa mất tại Cali. Ở nội trú, lễ Misa được lập lại như những năm tôi học ở St. Marie. Cũng 5 giờ sáng, chỉ khác là quần áo tuỳ tiện và không có mũ. Đặc biệt là không có cái món… cứt trâu rau dền nghiền nát trộn bơ. Mỗi tuần được ăn phở một lần. Bây giờ nghĩ lại, tôi nhớ cái câu… Phở không người lái. Tức là cách đây mấy chục năm, tôi đã được ăn phở không người lái… bằng đĩa. Hơi sâu chứ không phải tô, với nước và chừng… chục sợi bánh. Tôi đi trước Việt Cộng với Xã Hội Chủ Nghĩa nhiều năm…. Tôi không buồn vì trường mới di cư, tiền học phí thấp nên ăn uống có phần giản tiện. Một con tôm kho có thể ăn hết bữa cơm vì nó mặn như một… kho muối.

Tôi được vào nội trú là vì cái người con trai đã gọi tôi là… Bé Mai…. Mẹ bảo… để nó ở ngoài, nó phễnh bụng ra lúc nào không biết…. Tôi chẳng hiểu vì sao và thế nào là phễnh bụng. Phải chi Mẹ chỉ bảo cho tôi tường tận, như tôi và các con tôi bây giờ, thì đã không thành chuyện và cuộc đời tôi nó sẽ khác, phải khác đi nhiều. Đã không học được, không muốn học, nên ở nội trú mà tôi… quậy… tới bến. Bài không học, không làm, còn trùm mền soi đèn pin đọc thơ Nguyễn Bính, đọc tiểu thuyết. Gần hơn nữa là đã dám trèo tường đi chơi với Đạt. Ngay khi đưa tôi vào xin ở nội trú, Mẹ tôi đã tường trình đầy đủ những nét xấu và lì lợm của tôi, thế cho nên các sơ chú ý đến tôi nhiều lắm và hành động leo tường trốn đi chơi là giọt nước đã làm tràn ly nước. Lỗi của tôi. Một lầm lỗi không thể khoan nhượng và lần này không phải là giầy mà là củi tạ. Tôi không có lý do nào để bào chữa cho mình và chấp nhận trận đòn đau đớn hơn cả những lần trước. Mẹ đánh tôi là phải là đúng.

Đạt chỉ là một trong những người bạn của anh tôi. Ở tuổi đó, tôi chưa biết thế nào là yêu, thế nào là tình yêu. Chỉ thấy đi chơi là vui là đi, nào đã có vấn đề trai gái. Tôi có chung với anh tôi rất nhiều bạn, toàn là bạn trai. Đạt đẹp trai, học rất giỏi tôi thích, nhưng đó không phải là tình yêu bởi tôi mới 14 tuổi, ham vui, ham đấu láo và bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những bài hát, bài thơ tôi thuộc nằm lòng thay vì những bài học trong trường, mà dù cố gắng, tôi cũng chẳng thể nào nhét chúng vào đầu. Những bạn bè nào học chung với tôi, nếu còn sống đều biết rõ tôi là đứa học trò tồi nhưng là người có những bài thơ tuyệt vời của Nguyễn Bính và biết hát.

Tôi vẫn được đi học, vẫn đi chợ mỗi ngày, vẫn giặt quần áo và làm việc nhà kể cả côn việc… đấm chân cho Mẹ là điều không thể thiếu được. Kể ra, nếu mọi chuyện cứ như thế tiếp nối nhau ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, đời tôi không biết sẽ như thế nào. Chắc lại lấy chồng, đẻ con và đau khổ như chị Yến thôi nhưng số tôi hình như được sinh ra dưới một ngôi sao xấu nhất trong các ngôi sao xấu, để luôn luôn nhận lãnh những oan khiên, tủi buồn lúc nào cũng chờ chực sẵn. Những chuyện chẳng đáng gì, dính vào tôi bỗng thành lớn chuyện – hình như đến bây giờ… cũng thế – không phải tôi hỗn láo, lì lợm không biết nhận lỗi, không biết phải trái nhưng tôi luôn luôn cúi đầu nhận lãnh một hình phạt bởi tôi nói ra không ai tin. Riết rồi tôi trở nên nhẫn nhục, im lặng nhận chịu những trận đòn, những lời đay nghiến, đôi khi độc ác của Mẹ dù tôi cố gắng tin rằng thâm tâm Mẹ không hề muốn nói ra và Mẹ cũng thương tôi vì chính Mẹ đã sinh ra tôi – niềm tin này đôi khi bị lung lay bởi nếu tôi cũng là con do Mẹ sinh ra, sao Mẹ lại không hề thương cho những trận đòn tôi phải chịu và sao Mẹ lại nỡ nói với tôi những lời cay nghiệt ấy – Vậy thì thân phận của tôi ra sao, như thế nào. Sau này, có lúc tôi hỏi… Mẹ nói thật đi, con có phải là con của Mẹ hay Bố Viễn… mang con về cho Mẹ nuôi… Mẹ tôi không trả lời.

Bà Nội tôi ở một mình trong một căn nhà khá rộng trong ngõ 20 đường Phan Thanh Giản. Bà ở trên gác, dưới nhà cho mướn. Ngoài đường, bên trái là tiệm ảnh Mạnh Đan, bên phải là Bệnh Viện Bình Dân và Cư Xá Đô Thành – sau này, ông Đổng Lân và cô Thanh Nga về ở đây – Bà tôi vẫn ở một mình từ hồi Di Cư, bà tiếp tục chơi hụi, bà nấu xà phòng xả, nấu cao ban long. Tôi chả biết bà chơi hụi hay buôn bán với những ai nhưng vẫn áo the đen, răng đen, bà cuốn tóc đi từ sáng đến chiều. Câu Bà thường nói… Giời ơi, nắng đến… há mồm ra… và,… Này, rồi còn đời các anh, các chị nữa. Không khéo ăn khéo ở thì rồi… biết đời nhau ngay… Mẹ tôi rất ít đến thăm Bà vì ngày xưa Bà đã cố ngăn cản, chống đối việc Bố Mẹ tôi lấy nhau. Rồi giờ Mẹ tôi đi thêm bước nữa, cái hố sâu ngăn cách giữa hai người còn bằng ngàn lần con sông Bến Hải. Tuy vậy ngày giỗ Bố, Mẹ tôi đưa tất cả chúng tôi đến Bà, chẳng có phân biệt, ranh giới nào giữa chị em chúng tôi. Chính bà Nội mua cho tôi cái xe đạp, rồi vì bị ăn cắp mà tôi nhớ đời trận đòn… mưa giầy của Bố tôi.

Một buổi chiều đi học xong, cái răng cấm của tôi đã hư và sưng tấy lên, đau quá, tôi đi thẳng đến Bệnh Viện Bình Dân xin nhổ – Bố tôi có quen cô Yến, y tá trưởng ở đây – nhổ xong tôi choáng váng mặt mày, đi bộ qua nhà Bà nằm nghỉ thì Mẹ tôi đến mắng chửi tôi và làm dữ với Bà tôi – chẳng hiểu vì sao – Tôi cố gắng giải thích lý do, Bà cũng nói vào cho tôi, vậy mà cơn giận của Mẹ mỗi lúc một dâng cao. Sau cùng, có lẽ vì nhịn quá lâu nỗi đau mất con, mất cháu, Bà tôi mát mẻ… Thôi chị ạ, tôi chỉ có một đứa con, giờ nó mất rồi, còn lại mấy đứa cháu, nếu chị không nuôi thì tôi nuôi… Thế là xong. Mẹ tôi đồng ý ngay không một giây suy nghĩ, Bà về nhẹ nhõm. Bà Nội tôi, ngó vậy nhưng cũng không phải là người ai bắt nạt cũng được dù Bà chỉ biết ký cái tên của Bà. Bà giỏi lắm và biết lo xa. Cái giường Bà nằm là cỗ hậu sự. Bà đã mua ngay khi mua nhà, tối Bà ngủ trên đó, tôi nằm dưới đất cạnh cầu thang cách chỗ Bà nằm một cái bàn nhỏ. Gian gác bên cạnh Bà cũng cho người thuê. Đêm nào Bà cũng đọc kinh Phật và tôi ngủ ngon trong giọng đọc đều đều của Bà mà không hề thắc mắc là Bà không biết đọc, tại sao Bà thuộc nhiều kinh thế.

Nhà tôi ở giữa ngõ tức là ngõ có đường vào và trổ ra một lối khác. Cách nhà vài căn là nhà anh Liêm với 3 người em trai và ông bố già, trước có trồng một cây đu đủ… đực – tức không bao giờ có trái – Tôi còn nhớ anh Liêm, Tín, Dương và Trực – đã chết trận – còn anh Liêm thì hình như vào Không Quân. Cả ông cụ và 4 anh em rất thương tôi, từ 4 anh em này, tôi quen biết Lê Nguyên Hải và Dũng lai Pháp, quen thêm Hạnh, người đẹp mà không hiểu sao các anh gọi là Hạnh Lỉn – tức là nhỏ – nhà Hạnh ở con đường nhỏ song song với đường Cao Thắng (sau này Hạnh là vợ của nhạc sĩ nổi tiếng Trường Hải). Nhà của Đạt cũng nằm trên con đường Phan Thanh Giản. Đạt đang chờ giấy tờ đi Mỹ, tôi vẫn đi học, để làm gì chẳng biết. Đạt bảo… khi nào học xong, anh sẽ về cưới em… Tôi chỉ cười và lại đưa hết thư tình cho bác Ngọc Hoài Phương cất giữ… Người ta nói vậy thì cứ biết vậy. Sau đó Đạt đi Mỹ và hình như chẳng có lá thư nào của Đạt gửi cho tôi, về địa chỉ nhà Đạt.

Tôi hay bu theo đám bạn con trai. Đi nhảy đầm… ké, vì đôi khi những nhà giàu có, dân trường Tây tổ chức bal famille tại nhà hoặc ở cercle, làm sao chúng tôi được mời. Ấy thế mà cũng mò vào được cả đám. Băng chuyên nhảy biểu diễn của chúng tôi có thêm Khánh, vua BeBop ở Tây về, có biết thêm Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thế Khanh tiệm vàng Nguyễn Thế Tài và mấy người con bên tiệm vàng Nguyễn Thế Năng. Nhảy đầm thời đó là nhảy biểu diễn, lấy hay lấy đẹp chứ không có chuyện lợi dụng nhau nên những cuộc nhảy với dân nhà giàu, chọn lọc thật vui. Tôi biết nhảy tự… mình ên, không ai dạy cả và bị đòn bằng củi tạ cũng nhiều vì cái vụ bỏ nhà đi nhảy. Cái tật ham vui phải trả những giá thật đắt. Thường là thế. Nhảy tại gia chưa đủ, tới vũ trường luôn và chính cái lúc tôi biết thế nào là vũ trường, Lê Nguyên Hải… tỏ tình với tôi dưới cây đu đủ đực nhà anh Liêm. Đạt đi rồi, mọi người coi tôi như một thằng con trai, thế nên khi Hải ôm tôi – nhẹ thôi – tôi quả có thấy trái tim tôi đập nhanh hơn và có cái gì là lạ chạy trên da thịt tôi. Thật ra, tôi có chú ý đến Hải hơn các bạn khác nhưng vẫn không hiểu vì sao, chỉ biết không gặp, thấy nhớ nhớ, mong mong. Gặp rồi thì vui nhưng vẫn không biết “nó là cái gì và vì sao”. Chúng tôi một bầy con nít chơi với nhau, đã có đứa nào biết yêu hay có bồ đâu. Tôi thích Hải. Anh học giỏi, hát hay và nhảy đầm cũng không thua ai. Năm đó là năm thứ nhất Hải vào trường Dược.

Khiêu vũ trường Đồng Khánh là nơi đầu tiên tôi tới để nhảy và ở đó, tôi nghe nữ ca sĩ Mai Ly hát. Tôi không còn nhớ mặt chị, chỉ mang máng là dưới ánh đèn mờ ảo, chị Mai Ly xinh đẹp và hát hay. Thế rồi trong một lúc hứng thú, lại được các bạn khuyến khích, tôi trèo đại lên sân khấu và xin với ban nhạc cho tôi hát bài “Con thuyền không bến” của nhạc sĩ Đặng Thế–Phong. Giám đốc, ban nhạc coi tôi như một người khách nổi hứng bất tử nên chẳng ai thắc mắc. Nhiều lần sau đó, chúng tôi kéo nhau đến nữa và lần nào tôi cũng leo lên hát. Nào là “Lá thư” nào là “Chiều vàng” nào là “Gửi gió cho mây ngàn bay” cũng chẳng ai thắc mắc gì cho đến một đêm cảnh sát ruồng xét và phát giác ra tôi mới… gần gần 16 tuổi. Tôi được vào ngủ trong đời lần đầu tiên trong đời ở Tổng Nha Cảnh Sát. Ngày hôm sau, Bố tôi vào ký giấy tờ lãnh tôi ra. Tới cổng, ông quay sang tặng tôi một cái tát trời giáng, thấy mấy trăm ông trời rồi lên xe bỏ đi. Tôi đi bộ về nhà, mặt tỉnh queo. Sau đó, ông và Mẹ tôi nói thẳng… Muốn đi hát thì đừng bao giờ về nhà vì nhà này không có… mả làm ca sĩ.

Tôi vẫn vô tư, hồn nhiên vì đã có Bà Nội nhưng chính Bà cũng không muốn thấy tôi đàn đúm với một đám con trai. Bà cũng la mắng tôi đều đều như khi bà… tụng kinh vậy và Bà lại càng không hiểu… ca sĩ là cái gì. Mà của đáng tội, tôi chưa chính thức bồ bịch với ai trong đám bạn trai trời đánh của tôi ngoài Hải là người tôi mới hơi… mong chờ. Đám bạn trai của anh Sơn tôi thì người nào cũng thương tôi và xem tôi như một đứa em trai. Ấy vậy mà rồi Hải và tôi, cả hai đứa chưa kịp nói một tiếng yêu, Hải đã bỏ trường Dược gia nhập binh chủng Không Quân. Cũng như Đạt, Hải hẹn tôi ngày tôi ra trường và chúng tôi hồn nhiên nhìn một Lê Nguyên Hải hào hoa, học giỏi, hát hay, nhảy đẹp đi vào cuộc sống quân ngũ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau, tụ họp nói dóc và đi nhẩy đầm. Cũng là dịp biểu diễn cho Hải nghe. Thời đó tôi cũng đã biết hát nhạc ngoại quốc như Crazy Love – You are my special Angel – Put your hand on my shoulder – Only you và Unchain Melody, tiếng Tây thì Mavie – Non Je ne regrette rien – Sur le chemin de ta maison – Hải gọi tôi là Connie Francis. Thời gian này, tôi quen biết nhạc sĩ Tùng Giang ở khiêu vũ trường Đồng Khánh…

… Đầu Đông, Đà Lạt thật tuyệt vời. Bà chủ Night Club là một bà già gốc Hoa. Có lúc bà cay nghiệt nhưng cũng có lúc dễ thương, thông cảm với cuộc sống của các chị vũ nữ làm việc với bà vì nhiều người vào nghề vì hoàn cảnh gia đình. Có chị ngày đi học, tối làm vũ nữ, có nhiều chị chồng đi lính xa, phải nuôi cha mẹ già và một bầy con. Tối đến, dưới ánh đèn mờ ảo của vũ trường, chị nào trông cũng lộng lẫy vì thực sự ngoài đời, các chị là người đẹp chẳng may trời bắt nghèo. Nhưng cái nghề này, theo tôi là một nghề lương thiện. Làm vũ nữ không có nghĩa là… đi đêm với mọi người. Không ai bắt các chị làm đều đó dẫu đó là bà chủ, cho dẫu người khách đó là triệu phú. Ngoại trừ trường hợp các chị để lòng yêu thì đó là quyền riêng của các chị. Giới giang hồ thường có mặt theo yêu cầu của bà chủ, để bảo vệ cho chúng tôi và nhà hàng trong những trường hợp khách say sưa, quậy phá đánh lộn. Chúng tôi trở thành một nhóm, coi nhau như anh chị em trong nhà. Tuy họ giang hồ, tuy các chị là vũ nữ nhưng tất cả, theo cái nhìn và sự hiểu biết của tôi, họ là những con người trọng tình, trọng nghĩa gần gần giống tinh thần Lương Sơn Bạc nhưng họ không phải là những tay giết người, không chơi gác kẻ yếu thế, bênh vực người, che chở người yếu đuối. Họ cũng là người có học, trường Tây có, trường Ta có. Tôi giành được sự chăm sóc của các anh chị trong suốt những năm tháng ở Đà Lạt. Một bài học. Một kinh nghiệm rất đáng trân trọng cho cuộc sống. Kinh nghiệm đó sẽ được sử dụng như thế nào, theo chiều hướng nào. Đúng là một bài học tốt cho tôi.
CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 6
Tất cả những sự việc đã xảy ra, đã qua. Tất cả những khuôn mặt đã xa khuất mịt mù. Tất cả những gì gọi là hạnh phúc hay nỗi đau của một thời nào đó, chúng ta không còn nhìn thấy, tìm lại được. Tôi gọi đó là kỷ niệm. Tôi không có quá khứ, dĩ vãng như mọi người thường đề cập tới. Tôi chỉ có kỷ niệm và đó là tất cả gia tài tôi cưu mang cho đến một ngày nào đó.

Cái gì không còn nhìn thấy, không còn sờ tới được, dẫu chỉ một vài giây đồng hồ trước. Duy chỉ có kỷ niệm là bất biến. Nếu trong cuộc sống có một điều gì đó không thể thay đổi được thì đó là kỷ niệm. Những sự việc, những con người, đẹp có, xấu có đã bỏ chúng ta mà đi. Tuổi trẻ đã bỏ chúng ta. Mầu trong của mắt. Mầu xanh của tóc. Mầu hồng của môi. Ðã bỏ chúng ta. Lạnh lùng, tàn nhẫn và hồn nhiên.

Ở tuổi ba mươi, bốn mươi hay đã bước qua ranh giới nửa đời người như tôi hiện nay. Kỷ niệm không hề phôi pha theo ngày tháng. Mỗi ngày qua, chân bước tới gần cái cõi đi về. Tôi càng thấy gắn bó với kỷ niệm, như chỉ có kỷ niệm bây giờ mới trọn vẹn là của riêng tôi, như chỉ có những người đã xa đời, mới thuộc về tôi mãi mãi. Vì một lẽ nào đó, tôi thường “sống” với người đã khuất nhiều hơn, trân quý hơn, yêu thương và cảm thấy yên tâm hơn, được an ủi chia sẻ nhiều hơn. Ai đã từng trải qua nhiều ngang trái nghịch cảnh, cay đắng oan khiên, sẽ hiểu vì sao tôi có nhiều cái... khác người.

Mỗi người một cách sống là điều tự nhiên từ ngàn xưa. Ôi, khi ta đói, kỷ niệm có, cho ta no. Khi ta lạnh, kỷ niệm có, làm cho ta ấm. Khi ta nghèo, kỷ niệm có, làm cho ta khá hơn. Có nhiều người nghĩ như vậy và họ nghĩ đúng. Kỷ niệm không là miếng cơm manh áo hay tiền bạc trong đời sống. Kỷ niệm đẹp đẽ hơn, cao hơn, thiêng liêng hơn. Kỷ niệm làm đời sống chúng ta thăng hoa trong sáng và thánh thiện. Tôi thật tình tiếc cho những ai coi thường kỷ niệm hoặc có mà không biết giữ. Những người đó, tâm hồn mới nghèo nàn làm sao. Chúng ta có thể dời núi, lấp biển nhưng bản tính con người là điều không bao giờ thay đổi. Thật đáng tiếc.

Có nhiều đêm chợt thức giấc nhìn ra vườn, vầng trăng tròn tỏa ánh sáng soi rõ từng ngọn cây, khóm cỏ giống hệt như một đêm trăng quê nhà cũng trong một khu vườn nhỏ, có những kẻ quên đời sống quanh mình, cùng nhau uống rượu, ngâm thơ đàn hát dưới “nắng khuya”. Những đêm nằm nghe mưa buồn rào rạt, chợt nhớ những chiều mưa xưa cùng theo nhau ra quán ngồi, im lặng bên nhau nghe những giọt cà phê tí tách rơi, im lặng bên nhau nhìn người người, ngựa xe ngược xuôi. Những giây phút im lặng đã nói với nhau biết bao điều không thành tiếng. Buổi sáng cây cỏ còn lấp lánh sương mai, im lặng đi bên nhau dưới hàng thông từ bao năm reo mãi những điệu nhạc vi vu buồn bã bên mặt nước câm nín chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm.

Buổi trưa trời cao xanh thẳm, nắng đuổi nhau theo gió trên thảm cỏ quen, có cây đàn nằm thênh thang lắng nghe bước chân nhẹ nhàng lúc xa, lúc gần của hai kẻ quên đời. Chiều có mưa bụi giăng giăng qua thành phố, quán cà phê vắng, hương cà phê thơm lừng, vẫn chỉ hai người khách quen ngồi đó, im lặng bên nhau. Có gì quan trọng đâu. Không, không có gì cả, có nhau là điều đáng nói và họ đã có nhau trong suốt cuộc đời.

Ðà Lạt đẹp. Ðà Lạt hiền. Ðà Lạt thơ mộng. Ðà Lạt bao dung. Ðà Lạt thủy chung. Ðịnh mệnh khởi đi từ một nơi như thế. Tại sao không là Sàigòn. Tại sao không là Huế. Không, Sàigòn và Huế không phải là Ðà Lạt. Không bao giờ nên mọi sự phải khởi đi từ đó. Một sự tình cờ, mà ngẫm lại thì không đúng, không phải. Rõ ràng là sự sắp đặt của cái mà chúng ta gọi là Ðịnh Mệnh. Một người lưu lạc từ sông Hồng, một người rời xa sông Hương để gặp nhau vào một đêm có mưa và gió đầy trời, ở cái thành phố nhỏ bé, nhìn ai cũng là bạn. Cái thành phố đó nếu bạn đến một lần là sẽ nhớ mãi. Ðến rồi không muốn rời đi. Ði rồi lại muốn trở lại. Nhưng đó là Ðà Lạt của 40 năm về trước, một Ðà Lạt hiền lành như ngô khoai, trong sạch đẹp đẽ thơm như hoa hồng nhung, ngọt ngào như chuối La Ba và thủy chung như những hàng thông thẳng đứng suốt đời chỉ reo mãi một khúc nhạc hiền hòa.

Là một người sống đời ca hát, có dăm ba mối tình lớn, tình con, chân đã đi mòn mỏi trên quê hương, rồi năm châu bốn biển, đã gặp gỡ cả triệu người. Mưa bão cũng đi. Nắng gió cũng đi. Ði đến không còn biết mình đi đâu. Không cần biết vì bốn biển là nhà, nhìn đâu cũng thấy quê hương, nhìn ai cũng là anh, chị em, chắc chắn những người cùng một kiếp sống như tôi, phải có nhiều điều để nhớ mà tôi gọi là kỷ niệm. Qua một cánh rừng, ngang qua một cây cầu. Dừng lại ở một góc phố. Ngồi xuống uống một ly cà phê nơi quán nhỏ ven đường, thậm chí nhìn từng ngọn cây, bụi cỏ bên lề, lòng tôi cũng xao xuyến xót xa. Có lúc bàng hoàng ngẩn ngơ, tưởng chừng như trong một cơn mơ, tưởng chừng một khuông mặt, một dáng người thương yêu, thấp thoáng đầu phố, tưởng chừng như chỉ cần đưa tay ra những ngón tay tháp bút gầy guộc quen thuộc kia chạm vào tay mình. Nhưng rồi tôi hốt hoảng đến bật khóc vì trong tay tôi, chỉ có bàn tay lạnh giá của chính mình và góc phố kia chỉ là một khúc quanh hiu quạnh.

Nhiều khi ngồi một mình, lòng trống rỗng, đầu trống rỗng. Tôi không thể nghĩ đến bất cứ một điều gì . Dường như trái dất đã sạch trơn, chẳng còn gì hoặc là tôi ngồi đó nhưng hồn tôi không còn ở trong tôi . Một cái xác, một người chết và đối với người chết, không có vấn đề gì được đặt ra vì sẽ không có câu trả lời . Người chết không biết nói . Nhưng lại có những lúc tôi vùi mặt vào gối khóc nức lên từng hồi . Lòng nặng trĩu những kỷ niệm đớn đau không hề phai nhòa theo thời gian. Nghĩ đến người này, người kia, nghĩ đến đời mình, tim muốn vỡ ra trăm ngàn mảnh. Cũng nhiều đêm tôi nằm chong mắt nhìn bóng đêm vây phủ, nước mắt lặng lẽ rơi . Cứ thế cho đến lúc thiếp đi . Tôi đã hiểu thế nào là khóc lẻ loi một mình .

Tôi cũng có những niềm vui chứ không phải lúc nào cũng ôm mối sầu thiên thu ấy . Gia đình tôi tương đối là bình yên về mọi mặt. Không có những nặng nhẹ giận hờn. Cả hai vợ chồng đều đứng trên đỉnh dốc của đời, một cuộc đời quá nặng nhọc mệt mỏi mà cả hai đều nhận thức được, đều nhìn thấy những chịu đựng câm nín của nhau, cùng cố tránh cho nhau những muộn phiền nếu cảm thấy mình có thể gánh vác được . Vợ chồng về già nếu có thể sống với nhau đến già, có thể trở thành hai người bạn. Ðây là một điều tốt vì có nhiều điều, vì là vợ chồng, sẽ không thể chịu đựng nổi, nhưng nếu là bạn, sự việc sẽ đơn giản hơn khi có thể nói với nhau tất cả những điều tưởng không thể nói được, có đôi lúc tôi tâm sự với bạn một vài điều riêng . Song đó là chuyện của mười năm về trước, giờ đây chúng tôi sống đúng là đôi bạn già, nương tựa nhau lúc chiều tới . Còn cái gì mà phải giấu giếm nhau ở tuổi này . Duy có một điều, kỷ niệm riêng tư của mỗi người dường như vẫn là những điều riêng tư được cả hai tự động tôn trọng. Không thể chia sẻ, không thể an ủi . Rất tôn trọng .

Dĩ nhiên không phải cuộc sống chung 26 năm không có những cay đắng . Phải nói là nhiều đấy, nhưng tôi, phải, chính tôi là người quyết định, không thay đổi làm gì nữa và làm cho cuộc sống chung trở nên có ý nghĩa, trở nên đáng sống. Làm cho người này trở nên sự cần thiết của người kia . Làm cho nơi chốn này là nơi chốn để lúc nào cũng mong trở về mà không có sự sợ hãi hay vì không còn sự chọn lựa nào khác . Những kỷ niệm giữa cuộc sống chung quả có lúc làm tôi buồn tủi . Tôi không hề quên. Không thể quên, thế nhưng tôi xem đó như những thử thách, những chuyện nhỏ đời thường. Bởi cuộc đời, đâu phải lúc nào cũng cho ta sự ngọt ngào, mà nếu tôi là người đòi hỏi như thế, tôi đã tự làm khổ tôi trong 26 năm dài . Thỉnh thoảng hai vợ chồng ngồi ôn lại những vui buồn xa xưa mà tưởng như chuyện của ai đó . Dưới mái nhà này là sự bình yên bởi tôi muốn như thế .

Nếu có điều gì làm tôi đau lòng, ấy là tại tôi . Tôi muốn sống bình yên nhưng tâm tôi chưa yên. Tôi nhạy cảm quá . Tôi dễ vỡ quá, cho dù dưới mắt nhìn và sự nhận xét của nhiều người thì tôi là một người bản lãnh, can đảm. Ðiều này thật ra cũng không có gì gọi là sai hay xa sự thật bởi vì nếu tôi không can đảm, liệu giờ này tôi còn sống nổi với bao nhiêu tang thương chưa giây phút nào nguôi ngoai trong từng hơi thở . Cái gọi là bản lãnh, can đảm đôi khi chỉ là sự dối lừa, là cái vỏ mầu mè bên ngoài mà nó cũng có thể được xem như thái độ bất cần của một người chẳng mấy tha thiết đến cái gọi là ngày mai, của một người không mấy bình thường nếu không muốn nói là Ðiên. Thấy đời chán quá, chán đời quá, mà vẫn cứ ôm lấy cuộc đời . Là vì sao . Vì còn nhớ đến nhiều người . Vì còn nhiều người, nhiều điều để nhớ . Vì rằng đôi lúc tưởng đã quên nhưng cũng lại chỉ tự lừa dối mình mà thôi . Tôi không hề quên những điều cần phải nhớ và rồi chẳng có gì an ủi cho bằng đến một lúc nào đó như lúc này, tất cả oan khiên sẽ mở ra . Phải được mở ra, nào phải chỉ mười năm, đã 40 năm rồi đó . Nếu không phải là bây giờ, sẽ chẳng còn bao giờ nữa .
CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 7
Năm 1956, gia đình tôi đã ở Đà Lạt 1 năm....6 năm sau, tôi lại lên Đà Lạt tìm nơi trú thân nhưng lần này, chỉ có mình tôi.... Không có tin hay thư của Đạt. Hải đi Mỹ theo đuổi nghiệp Không Quân. Bạn bè tình không nhạt nhưng cũng chẳng còn gần gũi vui chơi như ngày nào. Anh tôi vào Thủ Đức. Bác Phương, Nam, Dũng lo đâm đầu học để may ra không phải đi lính. Cây đu đủ đực nhà anh Liêm dường như buồn hẳn đi. Nó đứng trơ trọi một mình, ngày cũng như đêm chờ đợi tiếng cười của chúng tôi. Chuyện đó không bao giờ có lại nữa. Tôi cũng trơ trọi như nó. Con ngõ đường như sâu hơn, hun hút trong ánh sáng vàng vọt yếu ớt hắt ra từ những căn nhà nhỏ thường đóng cửa sớm sau bữa cơm chiều.

Tôi mới 17 tuổi đã thành đàn bà, đã mang trong người một mầm sống không mong đợi. Lỗi của tôi...Tôi biết anh ta ở Vũ Trường Đồng Khánh. Anh ta là một người đẹp trai dù ăn nói không có duyên. Anh ta tên là Minh, dân Trường Tây gốc Đà Lạt. Gia đình Minh đàng hoàng, công giáo, điều này nhắc nhở tôi nhiều đến những ngày hạnh phúc khi học nội trú lúc còn ở Hà Nội. Mới xa Hà Nội mấy năm, tôi đã nhớ. Có lẽ tôi nhớ đến Bố tôi nhiều hơn là bởi tôi không hề tin rằng Bố tôi đã chết.... Tôi thích Minh nhưng không hề cảm thấy rung động, hồi hộp chờ mong. Không có cảm giác...đông cứng hoặc cháy bỏng, ngộp thở lảo đảo, bềnh bồng, tan chảy như bọt nước. Lê Nguyên Hải cho tôi những cảm giác đó dù chỉ ngồi cạnh nhau, cầm tay nhau. Hải có phải là tình yêu của tôi không. Tôi có yêu Hải không. Tôi không biết. Cũng như không biết như thế có phải là tình yêu không.

Sự lầm lỡ của tôi là nỗi đau đớn của Bà Nội - con gái không chồng lại...ôm balo ngược. Bà tôi xấu hổ. Mẹ tôi không cần biết. Riêng tôi, chẳng cảm thấy gì. Minh cũng không phải là người tệ, chơi chạy nhưng anh là lính Không Quân chuyên về Radar học tại Mỹ... Lương một anh lính hạ sĩ dù là không quân, nuôi anh còn chẳng đủ no, nói gì đến vợ con. Minh bảo sẽ đưa tôi về Đà Lạt trình diện bố mẹ nhưng rồi anh...ở tù vì tội đào ngũ. Tôi chẳng bao giờ quên những lần đi thăm Minh ở Khám Chí Hòa.

Khi cái bầu 6 tháng, tôi vẫn đi hát ở Anh Vũ và chính ở đó, tôi gặp Trung Úy Không Quân Kim Cương. Sau buổi hát, anh chở anh Sơn và tôi chạy vòng vòng Sài Gòn...hát tiếp những bài tôi vừa hát, đặc biệt anh hát cho tôi nghe bài Anh đến thăm em một chiều mưa...Anh bảo...Mai chọn bài có gout lắm, cứ như thế, và anh cũng muốn em giữ mãi nụ cười. Anh thích thấy em cười vì nụ cười đó sẽ mở cho em tất cả những cánh cửa...Cuộc gặp gỡ giữa anh em chúng tôi và Trung Úy Lưu Kim Cương đơn giản như vậy. Tôi biết ơn anh vỉ anh là người duy nhất có cái nhìn thiện cảm với tôi. Anh là người đầu tiên và duy nhất khuyến khích tôi đi theo nghiệp dĩ này. Khi nào có gì cần, cho anh hay...Ngày tôi sinh Ly Cơ, anh nhờ người gửi cho tôi 1500 đồng với lời nhắn...mua đồ cho con...Anh không bao giờ biết tôi đã dùng số tiến đó để tiếp tế cho Minh ở Chí Hòa. Chẳng ai. Anh vào nhà thương Đức Chính thăm tôi trong bộ đồ bay. Bác Phương Kều tức nhà báo Ngọc Hoài Phương tên cha mẹ đặt là Nguyễn Ngọc Kiểm cũng vào. Chị Yến cầm cho tôi 500 nói của mẹ gửi nhưng mẹ và Bà Nội không vào. Có điều không ai biết, tôi tự động chạy xe Velosolex...đi đẻ.

Ôm con về ở với Bà Nội không phải là điều đơn giản như cái lúc Bà giận Mẹ và tỏ lòng thương cháu. Tôi không buồn được vì tôi đã gây lỗi lầm không thể tha thứ dù sau khi mãn tù, Minh đến nhận vợ con và hứa sẽ cưới hỏi đàng hoàng. Song đối với những người hàng xóm, nhất là các bạn bè cũ của Bà, tôi vẫn là đứa con gái hư hỏng. Làm sao tôi có thể cắt nghĩa rằng vì lỡ dại nên phải lấy luôn cái người đó. Làm sao tôi có thể nói rằng sẽ không còn ai dám lấy tôi vì tôi không còn cái .....thổ tả gọi là trinh tiết. Cái thời của chúng tôi nó khó khăn như thế đó... Thậm chí có ca sĩ không dám cho mọi người biết mình có người yêu vì sợ khán giả không còn thích mình nữa. Bà Nội tìm cho tôi vú Chính để nuôi Ly Cơ. Con bé có lần ốm, sưng phổi gần chết, nếu không nhờ Bà, chắc LyCơ đã bỏ tôi mà đi rồi. Bởi lúc đó tôi chưa có một ý niệm, trách nhiêm làm mẹ. Yêu con thì có nhưng còn phải kiếm tiền nuôi con nữa chứ. Tôi không muốn trở lại cuộc sống khi mọi người quên mình, trong một cái phòng tối tăm, không giường chiếu trên một cái nhà sàn ở Cầu Kinh. Cơm bữa đói bữa no, tiền hát khi có khi không và đó là lý do tôi nhận lời hát cho Night Club ở Đà Lạt sau khi gửi Ly Cơ lại cho Bà.

Minh và tôi sống cuộc sống vợ chồng như mọi người. Chúng tôi ở chung với Bố Mẹ Minh. Năm sau, tôi có thêm một đứa con trai. Có người trong nhà bảo...thằng nhỏ trông giống ông...Lưu Kim Cương...Sao lại có ông Lưu Kim Cương trong này khi nhắm con mắt lại, người cũng biết Bảo Linh là con ai chứ. Tôi lại thắc mắc. Tại sao thế nhỉ. Sao không yêu mà lại...có con. Tôi sinh cu Linh ở Sài Gòn khi về nhà Bà Nội và lại một lần nữa, tôi tự động gọi taxi đến nhà thương ông Nguyễn Duy Tài. Cô y tá bảo chờ cô cho người đi mời bác sĩ về vì ông đang coi ciné ở rạp Eden. Tôi nhảy dựng lên...trời đất ơi, người ta đẻ đến nơi rồi mà còn đi tìm bác sĩ...mặc y tá nói, tôi hùng dũng leo lên bàn đẻ và rồi khi Bố Tài về tới, tôi đã hoàn thành thêm một tác phẩm...không chờ đợi. Nhưng dù sao chúng nó cũng là máu thịt của tôi. Không yêu chồng. Ai cấm tôi yêu con. Chẳng bao giờ tôi quên hai lần vược cạn, tôi chỉ có một mình và nằm suốt đêm. Khóc cho sự lỡ lầm ngu dại không thể tha thứ được của mình. Tôi nghĩ đến bố tôi. Ôi, tôi có lỗi với ông biết bao nhiêu. Tôi chỉ có lỗi với Bố tôi mà thôi.

Ly Cơ, Bảo Linh, vú Chính và tôi ra bến xe đò Minh Trung trở lại Đà Lạt bởi lúc đó tiền lương của tôi là 75.000. Đủ sức để khỏi phải mẹ con mỗi mgười một nơi. Lương của Minh bao nhiêu, tôi không biêt. Anh làm cho Usaid dưới quyền ông Lâm Quang tại Tuy Hòa và rất ít khi về nhà. Có vú Chín, tôi giao con và sống trở lại như thời con gái. Ở lại phòng trà ngủ với mấy chi vũ nữ hoặc leo lên đồi cù nằm nhìn Trời Đất. Tôi vẫn chưa ý thức được một cách nghiêm chỉnh, bổn phận của một người mẹ. Tôi vẫn chưa đủ tình yêu đúng nghĩa dành cho các con. Tôi còn quá trẻ. Tôi đã biết gì về cuộc sống quanh tôi. Tôi yêu tôi và chưa kịp sống cho tôi. Không có gì cho tôi. Không phải là lỗi của Minh trong cơn say rượu. Chỉ khổ một cái là người tôi yêu không phải là Minh. Chưa rõ ràng là ai, tôi chưa biết yêu...Mãi nhiều năm sau, tôi mới biết thế nào là tình yêu.

Điều không thể thay đổi, chối cãi là tôi yêu hát. Từ ngày đó, tôi đã tự nhủ dầu có phải đánh đổi hết để chỉ được hát, tôi cũng không ngần ngại và Đà Lạt quả là nơi tuyệt vời để hát những nhạc phẩm của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Khánh. Đông hay vắng không hề ảnh hưởng đến tôi. Thế giới của tôi chỉ có riêng tôi. Tôi hạnh phúc, tôi đau đớn sống với tôn giáo của mình. Những ngày nắng nhẹ nhàng. Những đêm mưa dịu dàng. Những bình minh rực rỡ.

Những hoàng hôn cô lẻ. Đâu có ai để ý. Chỉ riêng mình tôi lặng lẽ trên con dốc dài, bên dòng suối nhỏ, giữa bao la hoang dại, cố gắng hít cho đầy buồng phổi của mình hương thơm của đất trời hoa cỏ. Tôi yêu tôi - tôi yêu tình yêu của tôi, một tình yêu chưa giành cho riêng ai. Tôi thực sự dồn hết tình yêu vào những ca khúc mỗi đêm tôi hát với nỗi buồn. Nói là buồn bởi tôi chưa bao giờ được vui. Tôi hình như cũng là một đứa con không được mong đợi. Một sự thất bại của mẹ tôi. Thường thì một người đàn bà đẹp khó có thể chịu đựng một đứa con xấu. Tôi giống Bố. Lại thêm một lý do để mẹ luôn luôn bỏ quên tôi, tuy nhiên điều mẹ không hài lòng lại chính là điều làm cho tôi hãnh diện. Nó là nguồn ai ủi giúp tôi chống đỡ với bao điều tủi cực trong đời sống. Có biết bao người không đẹp và nghèo nhưng cả hai đều không phải là một cái tội. Nghĩ thế nên tôi không hề thất vọng khi Đạt quên tôi, song tôi tiếc Hải vì đã nghĩ đến Hải rất nhiều mà nếu Hải không đi xa, chắc tôi đã biết thế nào là tình yêu. Có thể tôi sẽ có hạnh phúc, cũng có thể không nhưng ít ra, tôi không đến nỗi phải ân hận. Một lần Bảo Linh hỏi tôi...Mẹ có yêu ba không...Tôi trả lời không cần suy nghĩ. Không. Thật tàn nhẫn nhưng rất thật thà vì Minh không bao giờ có trong ý nghĩ của tôi.

Tôi bắt đầu biết hút thuốc là từ năm 16 tuổi khi ở chung với chị của Minh là chị Lệ Quyên, người đóng vai chính trong phim "Nước mắt đêm xuân" của anh Nguyễn Long. Chị hút và thường bảo tôi...châm tau điếu thuốc mi... (gia đình Minh gốc Huế) riết rồi tôi hút thuốc lá hồi nào không hay.

Năm 1964 Hải từ Mỹ về và qua Thái Lan học thêm về loại máy bay A-6. Chị Quyên rủ tôi lên Pleiku chơi và tình cờ, tôi gặp lại Hải. Chúng tôi nhìn và chào nhau như 2 người bạn. Hải ngồi với bè bạn. Vũ Trường Phượng Hoàng hình như là nơi giải trí duy nhất cho các chàng Không Quân hào hoa bay bướm nơi thị trấn đìu hiu đó. Chúng tôi nhảy với nhau một bài. Hải bảo anh đi với người yêu. Trước khi bài hát chấm dứt, Hải nói...Sáng mai anh bay dùm cho một người, chờ anh về anh đưa em đi coi Biển Hồ...Tôi cho anh biết nơi tôi ở và chúng tôi chia tay. Tôi về trước. Giọng Hải đầy rượu, tiếng cười của anh vang lên trong cái khuya vắng của Vũ Trường.

Tôi không nhớ là mấy giờ vì đang say ngủ. Tiếng đập cửa rầm rầm làm tôi hốt hoảng. Hải la lớn...Mai, Mai anh đây, Hải đây...Tôi vội vàng chạy ra mở cửa phòng, Hải loạng choạng bước vào, anh ôm hai vai tôi và nói...Mai chờ anh, xong phi vụ anh sẽ đưa em đi Biển Hồ...Tôi chưa kịp hỏi, Hải đã đổ ập người xuống giường, ngủ. Tôi chui vào mền nằm ghé bên anh, tôi cố đẩy anh đắp mền cho anh nhưng đành chịu. Hải nằm úp mặt trên tấm khăn phủ giường. Tôi trở lại giấc ngủ dở dang, 6 giờ sáng thứ dậy, Hải không còn nằm đó nữa. Khoảng 2 tiếng sau, tôi chợt nghe một tiếng nổ lớn không biết xuất phát từ đâu và sau đó, tôi được tin anh đã chết.

Trên chiếc phi cơ đưa xác Hải về Sài Gòn, chỉ có một mình tôi ngồi bên quan tài của anh. Tôi đau đớn nhưng không khóc được. Không một giọt nước mắt nào rơi ra khỏi đôi mắt của tôi. Điều làm tôi xót xa hơn nữa là bạn bè và gia đình Hải quy tất cả trách nhiệm vào tôi. Tôi không nói được gì. Tôi không muốn nói. Tính tôi vốn vậy. Lặng lẽ tôi quay lưng đi trước những cái nhìn căm giận và ai oán của mọi người...Nhiều năm về sau, rất nhiều năm về sau, tôi nhận được một bức hình do chính thân phụ Lê Nguyên Hải gửi cho tôi với hàng chứ cũ viết sau tấm ảnh...Gừi cô Khánh Ly thay mặt cố nhân Lê Nguyên Hải. Lúc đó, tôi khóc. Ôi, sao hạnh phúc bao giờ cũng đến với tôi quá trễ...
CHUYỆN KỂ SAU 40 NĂM Chương 8
Hải chết... đó là cái chết đau thương ghi đậm nét trong đời tôi. Không phải nỗi đau đớn của người vợ mất chồng bởi chúng tôi chưa hề có với nhau những chia xẻ vợ chồng ngoài nụ hôn thơ dại, vụng về đã thuộc về ngày xưa. Sau khi bỏ Dược, Hải gia nhập binh chủng không quân, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Nụ hôn phớt nhẹ và lời nói...anh sẽ cưới em...cũng nhạt phai dần. Rồi tôi trót dại lỡ lầm, các bạn tôi, trong đó có Hải vẫn không nhìn tôi khác đi. Hải và anh chàng Nam Ngố - cũng không quân- thường lấy trộm ở nhà mang đến cho tôi lúc thì nửa chai nước mắm, lúc thì túi gạo. Thấy tôi sống vất vưởng cô đơn trong căn phòng gỗ nhỏ hẹp trên dòng kinh nước đen, không chăn màn, bàn ghế, đêm đêm đi hát ở Đại Nam, lúc được hát, lúc bị bỏ quên ngồi chờ cho tới khi hết giờ, lủi thủi đi xích lô về. Bạn bè thương lắm nhưng lúc đó các bạn tôi ai cũng còn đang đi học, ăm bám bố mẹ. Chia cho nhau chút cháo như thế là hiếm quý lắm rồi... cho nên, khi Hải chết tôi thương xót Hải như một người thân yêu trong chính gia đình cũng chẳng có ai hạch hỏi gì, mà nếu có hỏi, tôi cũng có biết lý do vì sao sự việc đau thương ấy xảy ra. Tôi không làm gì và không biết gì. Hoàn toàn không. Tôi chịu tiếng oan bao nhiêu năm trời và chính vì thế, tôi đã khóc khi thân phụ Hải gửi cho tôi tấm ảnh của anh. Tôi chưa bao giờ quên anh: Lê Nguyên Hải .

Lúc đó, trước 1962, tôi đã được dịp biết nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Ông có vẻ hài lòng khi đàn cho tôi hát. Ông Nguyễn Đình Toàn dạy tôi ngâm thơ và đưa tôi vào ban Tao Đàn của nhà thơ Đinh Hùng. Tôi thật hèn kém, nhỏ bé bên cạnh Bà Hồ Điệp, ông Nguyễn Thanh - người đã vượt sông Bến Hải vào Nam - nhưng ai cũng yêu thương tận tâm chỉ bảo cho tôi. Thời đó được đứng cạnh những tên tuổi lẫy lừng ấy cũng tựa như chuyện nằm mơ, chuyện thần thoại. Chính quyền thời nào cũng ơ hờ với sinh hoạt văn nghệ, nên nếu có người đã từng nói...nhà văn Việt Nam khổ như chó...tôi thấy không có gì quá đáng. Những người thành danh, tên tuổi đã đi vào văn học sử mà còn khổ thì tôi, chúng tôi, những đứa mới tập tễnh vào nghề làm sao áo ấm, cơm no. Qua ông Nguyễn Đình Toàn, tôi được biết thêm rất nhiều người. Được trở thành nhân vật Bé Mai trong gia đình Bé Ngôn Bé Luận của Nhật Báo Ngôn Luận, rồi cũng tập tành viết lách lăng nhăng vớ vẩn, ấy thế mà cũng được cho đăng. Dĩ nhiên tất cả những công việc này đều không mang lại cho tôi một đồng bạc nào, vậy mà tôi cảm thấy rất sung sướng đến chẳng cần biết ngày mai mình còn tiền ăn cơm, trả tiền căn phòng nhỏ hẹp trên kinh nước đen trước chợ Đakao nữa không.

Lúc rời nhà hàng Anh Vũ - bị đóng cửa - tôi mày mò xin được hát ở phòng trà Hoà Bình nằm ở góc đường Lê Lợi gần ga xe lửa, ngó xéo qua là chợ Bến Thành. Tiền bạc cũng chẳng có bao nhiêu. Chủ phòng trà cho thế nào, nhận thế ấy, nên nghèo chưa từng thấy, nghèo gì mà nghèo dữ vậy. May một cái áo cũng là chuyện không tưởng. Ông Nguyễn Long quay phim "Nước Mắt Đêm Xuân" có tôi xuất hiện hai cảnh, cũng không tiền. Phải dành dụm, vay mượn may được cái váy đen cài trước ngực một bông hồng trắng, còn ngay cả quần áo đi hát cũng chắp vá. Hai vạt áo dài may lại cũng được một chiếc váy gọi là jupe serré. Toàn bộ là đầu thừa đuôi thẹo từ quần áo chị Yến, của mẹ tôi bỏ đi mà anh Sơn tôi rất khéo tay may lại cho tôi. Từ Hoà Bình, tôi mày mò xin được hát ở khiêu vũ trường Đại Nam. Hằng đêm tôi đến sớm để nếu ca sĩ nổi tiếng chưa đến hoặc không có ai, may ra tôi sẽ được cho hát. Từ ông Nguyễn Đình Toàn, tôi gặp được nhạc sĩ Y Vân và hát cho ông nghe. Nhạc sĩ Y Vân vừa sáng tác xong bài Ngăn Cách, ông dạy và đưa cho tôi nhưng có một đêm ở Đại Nam, khi được hát, tôi đưa bài Ngăn Cách cho ông Lê Văn Thiện, lúc đó là trưởng ban nhạc, ông Thiện cầm xem rồi liệng cái xạch...bài gì mà cải lương...tôi đâu dám có phản ứng gì. Thật tôi cho tôi chẳng có duyên với bài hát ấy. Về sau khi chị Minh Hiếu hát, bài Ngăn Cách lập tức nổi tiếng cho đến bây giờ.

Hàng đêm, tôi ngồi một góc lén nhìn chị Trúc Mai đẹp, sang như một mệnh phụ. Chị Kim Chi đẹp như...đầm. Hai chị ngồi với nhau, chủ, khách và bồi bàn rối rít xúm quanh hầu hạ. Ngàn đời sau, tôi không bao giờ quên cái hành động sang cả của chị Trúc Mai khi ăn xong môt trái nhãn, chị nhẽ nhàng dùng chéo khăn bàn lau mấy ngón tay, mặt vẫn ngẩng cao, mắt nhìn thẳng và rất nghiêm. Tôi cứ ngồi chiêm ngưỡng các bậc đàn chị như thế đêm này qua đêm khác. Không ganh tỵ - không dám - không mơ ước để rồi đêm về lại căn nhà sàn, nằm khóc một mình. Điều đặc biệt là các chị chưa bao giờ tỏ ý xem rẻ tôi, trái lại đôi khi trong những lời hỏi thăm, tôi cảm thấy được sự thương cảm, tội nghiệp khiến tôi ấm lòng và giữ mãi sự kính trọng cho đến bây giờ. Cái lần đáng nhớ là một đêm chị Minh Hiếu bảo tôi đến nhà hàng Tự Do hát thế cho chị. Tôi mừng lắm vì Tự Do là một nhà hàng lớn nổi tiếng nằm trên đường Tự Do. Sửa soạn tương đối tươm tất dù lúc đó tôi chưa biết dùng phấn son, tôi đến sớm và nhận được lời ông chủ Ngô Văn Cường truyền ra...ca sĩ tôi nghỉ thì để ban nhạc hòa tấu, nhà hàng tôi không để cho những người vô danh làm mất uy tín... Tôi lóc cóc trở về cái nhà sàn một mình quạnh hiu, lòng đầy tuyệt vọng nhưng không hề giận dữ, oán trách. Giận ai, trách ai bây giờ. Đó là cuộc đời. Đó là cuộc sống tôi tự lựa chọn cho mình và lao vào bất chấp mọi gian nan khốn khó, hệt như một con thiêu thân biết là lao vào lửa sẽ chết nhưng nó vẫn cứ bằng lòng với số phận dành cho nó. Gần như một hành động...tử vì đạo. Bây giờ, 44 năm sau, tôi thấy cái sự việc...âm nhạc cũng như là một thứ tôn giáo của tôi...không phải là quá đáng.

Sự sống ngày càng không dễ dàng. Không thể xin được gì ở gia đình. Không thể trông mong vào bạn bè. Không chờ mong những cánh cửa, những sân khầu mở ra dành cho mình một chỗ đứng dầu nhỏ nhoi khiêm tốn. Con gái đầu lòng, tôi gửi cụ Nội trông nom. Người gọi là chồng thì lúc gặp lúc không. Trong cơn tuyệt vọng thì bỗng đâu một người, một sự cố xảy ra mở đầu cho những may mắn chiếu cố đến tôi. Có lẽ vì lòng tôi tha thiết với nghiệp dĩ ấy chăng hay tôi được sinh ra chỉ để làm được một việc duy nhất là hát, đúng như mơ ước của tôi. Một định mệnh đã được báo trước với tiếng đàn, tiếng hát của Bố tôi qua những bài hát đẹp đẽ nhưng đầy những gãy đổ và chia lìa. Ngẫm cho cùng, có gì trọn vẹn, đầy đặn được mãi trong cuộc sống. Gãy đổ hay chia lìa, âu cũng là luật bù trừ của Thượng Đế.

Một phòng trà ở Đà Lạt cần ca sĩ. Bà chủ xuống Saigon, rồi tôi để con lại và ra đi. Chẳng từ giã ai. Chẳng có ai để từ giã. Chẳng có ai để ý đến mình. Con đã có cụ Nội. Tôi rời Saigon như thế vào một ngày tháng 11 năm 1962. Tiền lương tuy ít nhưng có thể kéo tôi ra khỏi tình trạng tuyệt vọng bởi những âu lo sinh sống giữa một nơi chốn tuy rộn lớn nhưng lại chẳng có chỗ nào cho tôi. Nghiệp dĩ ca hát chưa được xã hội quan tâm hay coi trọng. Số ca sĩ có thể đếm trên đầu ngón tay song không có cơ may nào cho mình chen chân. Có một lần, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết đi cùng mấy ông nhà báo nào đó đến gặp tôi ở ngõ 20. Ông bảo...em muốn nổi tiếng thì phải đi với mấy anh. Phải có mấy anh giới thiệu mới được...Tôi không hiểu ông muốn nói gì nhưng thường những đứa mồ côi, khốn khổ, lại khôn rất sớm. Tôi không hề nghi ngờ cái thiện chí của mấy ông nhưng linh tính mách bảo rằng con đường được hứa hẹn đó sẽ chẳng đưa tới đâu. Tôi yêu hát, chỉ muốn được hát, đủ sống để được hát chứ không hề nghĩ có ngày được gọi là ca sĩ hay sẽ nổi tiếng như các chị Trúc Mai, Kim Chi, Thanh Thúy hay Minh Hiếu.

Gia đình bên nội của con tôi lập nghiệp ở Đà Lạt thế cho nên dù sao đi nữa, tôi cũng phải ra mắt nhưng tôi vẫn ở trong căn lầu trên của nhà hàng. Chỉ thỉnh thoảng mới về, cho đến năm 1963, tôi trở lại Saigon và sanh đứa con thứ hai. Từ nhà cụ Nội tôi tự gọi taxi đi đến nhà thương Duy Tân. Ấy, phải coi là mình đã có gia đình thì chuyện có con cũng bình thường như người ta ăn cơm, uống nước vậy. Đó là ngày 4 tháng 10 năm 1963. Thế là mới 18 tuổi đầu, tôi đã có hai đứa con. Một trai, một gái. Sau đó, tôi thực sự là một thành viên trong nhà họ Trần, bắt đầu học Giáo Lý với Linh Mục Thạch mỗi chiều tại nhà thờ Chánh tòa Đà Lạt và làm phép hôn phối tại đây, với một ít người quen. Gia đình tôi chỉ có một đứa em nhỏ. Mẹ và Bố dượng tôi không có mặt, cũng chẳng có một tí qùa, một lời nhắn nhủ vui mừng nào.

Không yêu mà cứ thành vợ chồng. Gặp nhau đôi lúc có như không. Chẳng bao giờ nhớ thương mong ngóng. Ai muốn đi đâu cứ đi. Khi nào về cứ về. Gia đình bên Nội mấy đứa nhỏ cũng chẳng mấy khi dòm ngó đến mấy mẹ con tôi ở dưới nhà, và tôi, cũng có thương con đấy nhưng chưa đủ thắm thiết, đắm đuối như người khác bởi lẽ, tôi còn nhỏ quá, tôi cũng chỉ là một đứa trẻ, chưa biết nhiều điều trong đời sống, không ham muốn chuyện vợ chồng. Sống lặng lẽ thụ động giữa những người không hề có chút quan tâm nào đến mình. Tôi thì lại rất nhạy cảm, rất dễ tủi thân, rất mong mỏi mơ ước được yêu thương, cái điều này phát sinh từ ngày mất đi người cha tôi tôn thờ cùng với chuỗi ngày sống đầy mặc cảm buồn tủi chờ đợi một tiếng âu yếm của mẹ. Tiếng nói ấy không có. Không bao giờ có được nữa trên đôi môi của Mẹ tôi.

Cái năm 64 là một năm thật lạ lùng. Lắm chuyện lạ lùng có những vui buồn, tủi nhục, có dấu hiệu may mắn mà tôi không để ý - Phải mãi về sau này, ngồi nghĩ lại, tôi mới thấy được, mới cảm nhận được sự sắp đặt của Thiên Chúa...Tiền lương của tôi đã được nâng cao lên 75.000 một tháng. Tôi đã xin cụ Nội đón con gái sau khi có thêm đứa con trai. Ba mẹ con được đón nhận, nhìn nhận sau rửa tội và làm lễ cưới ở nhà thờ. Có chỗ ăn ở đàng hoàng. Gia đình tôi không còn sợ mang tiếng con không chồng mà chửa. Mọi người đều cảm nhận thế, chỉ riêng tôi là không. Tôi chẳng cảm thấy có gì vui mừng vì dẫu thế nào, tôi cũng luôn luôn là tôi. Tôi một mình. Những điều người ta mừng cho tôi lại chính là những điều tôi không màng tới. Hoàn cảnh đưa đẩy tôi trong lúc tôi bơ vơ không nơi nương tưạ. Khi đã...liều mắt đưa chân, thì là cùng đường, là không có sự lựa chọn. Gập nghềnh trắc trở, đổ vỡ là chuyện không thể tránh. Nó cứ từ từ tan ra trong sự không chung thuỷ của cả hai người. Công khai không dấu diếm, né tránh, dầu cái sự không chung thủy của tôi chưa cao đến mức độ bị lên án nhưng với một ly nước đã quá đầy, giọt nước ân huệ cuối cùng dẫu từ bên nào, cũng đủ sức làm tràn. Tôi không hề hối hận với sự chia tay từ từ, kéo dài tới ba năm. Rất nhiều năm sau, khi con trai đã có gia đình hỏi...mẹ có yêu bố con không...Không...câu trả lời bật ra nhanh như nó đã nằm sẵn đâu đó mà từ lâu lắm rồi tôi không để ý. Đó là một lỗi lầm thời thơ dại và tôi đã phải trả giá không rẻ. Nhưng dẫu sao, tôi cũng có được hai đứa con.

Tình cảm tôi dành cho Hải là thứ tình cảm thơ dại, nhẹ nhàng. Tình cảm tôi dành cho ông Lưu Kim Cương là thứ tình cảm phát xuất từ lòng biết ơn. Cả hai đều rất trân trọng đối với tôi trong suốt cuộc đời. Hình ảnh những người hùng binh chủng không quân, trước hoặc sau một phi vụ, ghé ngang thành phố Đà Lạt, cùng nhìn và nghe tôi hát một bài, rồi lặng lẽ ra đi đã để lại trong lòng tôi một an ủi, ấm áp không thể quên được, nhất là lời ông Lưu Kim Cương dặn dò...Đừng bao giờ làm mất nụ cười. Nó sẽ mở cho em cánh cửa tốt đi vào cuộc đời...

Khánh Ly
5/04
Đã Không Còn Trẻ Dại
Khánh Ly

Ngày xưa khi còn bé, tôi có đi học và môn giỏi nhất của tôi là...học thuộc lòng. Điều này tưởng như không ích lợi gì nhưng thật sự nó đã giúp tôi rất nhiều khi trở thành một người được gọi là ca sĩ. Tôi học bài nhanh và nhớ lâu. Nó cũng còn có nghĩa là những điều gì đã đi vào tim óc tôi - dẫu rất nhỏ - cũng là một dấu ấn đậm nét, chẳng bao giờ phai nhòa.

Ngày xưa khi còn bé, tôi cũng thích những bài luận văn. Cô thầy thường ra đầu bài...Em hãy tả về căn nhà của em hoặc nói về cha mẹ, ông bà nội ngoại...Tôi thích là bởi vì có cơ hội đưa vào bài làm những điều hay, ý đẹp từ văn thơ tôi thường nghiền ngẫm, tuy nhiên chính vì thế, tôi thường viết theo ý tôi và ra ngoài đề tài. Lúc đó, tôi mới ngoài 10 tuổi.

50 năm đã trôi qua, khối óc và trái tim tôi...vẫn vậy. Cứ mơ mộng những điều không bao giờ có thể xảy ra trong đời sống này. Dẫu cuộc sống có thế nào cũng không làm thay đổi cái tâm hồn của một đứa con gái 10 tuổi dưới mái tóc đã điểm bạc. Tôi không còn bé nữa. Ngày hôm nay khi ngồi đây viết về căn nhà của tôi và những gì trong căn nhà nhỏ này.

Chúng tôi đã ở căn nhà này hơn 20 năm. Căn nhà đầu tiên cà có lẽ cũng là căn nhà cuối cùng, căn nhà độc nhất của chúng tôi. Nó, căn nhà nằm ở một thành phố nhỏ cách quận Cam 25 phút lái xe . Nó mới 30 tuổi. Nhỏ và ấm cúng. Đúng là nó nhỏ thật so với nhà của các bạn tôi nhưng nó đã cùng tôi chứng kiến, chia sẻ bao nhiêu ngọt bùi, cay đắng. Nó là cái nơi tôi luôn luôn nghĩ đến và vui mừng trở về sau những chuyến đi ngắn dài. Nó là nơi, chúng tôi cố gắng giữ gìn bảo vệ. Quan trọng hơn cả, Nó là nơi các con tôi lớn lên, trưởng thành và...rồi xa Nó.

Dẫu đã chuẩn bị cho mình rất kỹ, chúng tôi vẫn không tránh khỏi những giây phút chạnh lòng, cảm nhận được sự cô quạnh của mình. Đời sống của chúng tôi quạnh quẽ thêm nữa, khi tôi tự đóng cửa, một lần nữa giam mình trong cái "ốc đảo" đã sẵn có. Ba năm rồi, chúng tôi, Đoan và tôi hai người bạn già nương tựa vào nhau và...chờ đợi. Chúng tôi chờ đợi nhiều thứ, quan trọng nhất là điện thoại của các con. Chỉ có thằng Út dẫu đã ra riêng nhưng gần nhà, thường hay ghé sau khi đi học, sau giờ dạy học. Ông Nhựt Thanh bảo...Anh chị nợ thằng này, nó sẽ ở với anh chị cả đời...Nó luôn luôn cười và lắc đầu mỗi khi tôi hỏi chừng nào lấy vợ.

Chúng tôi cộng lại, khá đông con nhưng con cái như mây trời, như hương hoa. Chúng tản mác mỗi đứa một nơi. Công việc riêng, nhà cửa riêng, gia đình riêng song tất cả đều ghi lòng cái điều chung là chúng còn, luôn luôn còn một nơi chốn nữa rất bình an cho chúng và vòng tay mở rộng của chúng tôi. Bảo tụi nó chuyển công việc về đây cho gia đình được nhiều dịp gần gủi hơn, chẳng đứa nào chịu nghe. Trong nước Mỹ mà như xa vạn dặm. Cũng vẫn những cú phone thăm hỏi của các con còn nhớ đến mẹ. Vẫn là những bình hoa được tiệm đem đến đã được order từ xa.

Ngày xưa khi còn bé, tôi đã một mình. Tuổi thơ sao buồn thế. Bây giờ, tôi không còn bé dại nữa, vẫn lủi thủi ra vào một mình. Ngày xưa chờ Mẹ. Bây giờ chờ con. Tôi vẫn nuôi mơ ước một lần nào đó, được nghe mẹ tôi nói lời yêu thương như tôi thường mong mỏi...Chị không có duyên nợ với Mẹ...ông Nhựt Thanh nói thế...Dẫu chị có yêu mẹ đến mấy, bà cũng không bao giờ gần chị. Tôi có quá nhiều yêu thương dành cho các con thì chúng lại ở quá xa. Tuy vậy xa hay gần, tôi cũng là mẹ của các con tôi, trong bất cứ cảnh huống nào.

Trời hôm nay không nắng, cũng không mưa nhưng buồn quá. Nỗi buồn vô cớ làm căn nhà nhỏ của chúng tôi bỗng như quá to lớn trống trải. Cũng vẫn là căn nhà mọi khi. Căn nhà đã cùng chúng tôi cười khóc. Sao bỗng dưng lặng lẽ một nỗi ngậm ngùi. Mẹ tôi từ ngày qua chỉ một đôi lần ghé ngang vội vàng. Chưa bao giờ bà lưu lại. Chỉ có tiếng cười nói của các con tôi và đây cũng chính là căn nhà ông Nhựt Thanh quả quyết là tôi sẽ mua vào lúc trong túi cả hai chúng tôi chỉ có 5000 đô. Nhưng mà rồi chúng tôi mua nhà thật.

Bao nhiêu năm đã trôi qua trên con phố nhỏ này, tôi cũng chẳng để ý, chỉ vì tôi rất bằng lòng với cuộc sống này. Nhìn các con khôn lớn, ngoan ngoãn. 30 năm không phải là quá dài. 30 năm không phải là cái giá quá đắt để trả. Không thể tính nợ với chồng con. Cũng không thể tính nợ với những người thương mến mình, mà đầu óc là nợ đi chăng nữa thì cũng là món nợ ngọt ngào êm dịu. Tôi hân hoan gánh trên những điều đó, với tôi, tất cả đều là không.

Buổi chiều, đi dưới hàng thông, tôi thường nhẩm lại những ca khúc ngày xưa. Có đôi lúc tôi để hồn tôi bay về một dòng sông, một cây cầu, những ngọn đồi, những thảm cỏ, những con đường của một thời thơ dại. Nỗi nhớ thương chỉ mang đến cho tôi những thoáng ngậm ngùi. Muốn sống, tôi phải quên dù điều này khiến tôi đau lòng. Tuy nhiên, không thể khác được.

Nỗi nhớ thương của người đã quá tuổi xuân là những hoài niệm dịu dàng được giấu kín, giữ riêng cho mình kỷ vật một thời đã qua. Có nói ra, cũng không ai có thể chia sẻ với ai. Mà cũng không nên nhắc lại nữa. Ngày thơ dại đã qua lâu lắm rồi. Bây giờ, tôi đã lớn. Tất cả mọi bổn phận, gần như đã vuông tròn. Tôi xuôi dòng đời, theo phận số và cảm thấy lòng yên ả trong đời sống khép kín nơi này.

Đừng cay đắng nữa hỡi cuộc đời. Hãy thức dậy với tiếng chim hót đầu ngày và mỉm cười...một mình. Bao nhiêu ngàn năm nay, mây vẫn bay như thế, gió vẫn thổi như thế. Mây trôi vế đâu. Gió thổi về đâu. Tôi không biết. Anh chị có biết không. Ai biết.

Khánh Ly
7/04
Gặp Lại Trịnh Công Sơn
Khánh Ly

Ở đâu và bao giờ cũng vậy, mỗi khi nghe tiếng anh nói cười, tôi đều cảm thấy một nỗi yên tâm vô cùng... "Ồ, Mai hả, có qua không". Tôi cườị.. "Em cũng chưa biết tính sao, để xem đã nghe anh..." Miệng thì nói vậy, sáng hôm sau tôi đã có mặt ở phi trường. Chuyến bay cất cánh lúc 7 giờ sáng.

Trời lúc đó đã sang tháng 4. Tuyết vẫn phủ trắng xóa 2 bên đường từ phi trường về nhà. Hình như cái gì vào lúc sắp hết cũng mạnh mẽ thêm, như ánh lụa, như cơn nắng, như mùa đông, như tình yêu - rồi mới chịu dứt hẳn, mới chịu buông tay chấp nhận. Cũng may, tôi chuẩn bị áo lạnh đầy đủ vậy mà cũng không tránh khỏi những suýt xoa.

Tôi đi thẳng lên lầu, rón rén bước vào phòng. Anh đang ngủ. Giấc ngủ buổi chiều. Khuôn mặt gầy, xương xương góc cạnh. Cái kính gọng vân vân như đồi mồi để trên cái bàn nhỏ đầu giường. Anh gầy quá. Tôi bước lại gần anh hơn. Rất nhẹ nhàng tôi cúi xuống nhìn sát mặt anh. Tôi không nghe thấy hơi thở của chính mình. Tự dưng tôi muốn hôn lên trán anh. Tôi không làm thế. Tôi muốn nắm lấy bàn tay rất gầy có những ngón thon dài, đặt trên ngực. Tôi không làm thế. Và cũng rất nhẹ nhàng như khi bước vào, tôi ra ngoài phòng khách ngồi nói chuyện với Tâm, Tĩnh, và anh Thích.

Anh bước ra, tay vuốt tóc, tay chỉ tôi ... "A, tới rồi. Tới hồi nào vậy?" Giọng anh không hề có chút ngạc nhiên, làm như cái chuyện tôi đến, anh đã biết. Ngày xưa cũng thế. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau và đến lúc này tôi mới cảm nhận rằng chúng tôi thực sự có nhau. Không phải trong một giấc mơ kéo dài 17 năm. Tất cả chúng tôi ngồi bên nhau. Hình như chưa bao giờ chúng tôi nói với nhau nhiều dù ở bất cứ một đề tài, một lãnh vực nào. Hình như chúng tôi có cách nói mà chỉ hai chúng tôi hiểu được. Một cách nói ở bốn con mắt im lặng. Cũng có lúc, cả hai chúng tôi bị lôi cuốn vào câu chuyện vui của mọi người. Nhưng đó là những điều hoàn toàn không dính líu, liên quan đến những điều thực sự chúng tôi muốn nói với nhau. Tất cả những điều cần nói, chính là những điều không bao giờ nói ra bằng lời.

Buổi chiều tuyết rơi kín mặt hồ, chúng tôi đi bên cạnh hàng cây đầy hoa. Hoa tuyết. Nói chuyện bâng quơ, không có gì rõ ràng được đặt ra, không có gì thắc mắc, không có khoảng cách 17 năm để phải ngỡ ngàng. Tôi ngỡ như vừa từ Saigon vào Huế thăm anh. Anh từ Huế vào Saigon. Chúng tôi uống cafe tại La Pagode. Tôi tưởng sẽ có nhiều điều, để hai anh em nói với nhau. Nhưng cả hai đều không nói gì cả.

Bao nhiêu ngày tháng đã đi qua giữa chúng tôi. Anh vẫn không bao giờ thay đổi. Tôi cũng thế. Cả hai không có những thắc mắc về đời sống của nhau bởi 30 năm trước đã không hỏi thì 30 năm sau cũng không hỏi... Tôi quý những giây phút ở bên anh và tôi nghĩ anh sẽ nói với tôi điều cần nói, nếu có. Anh im lặng cũng có thể vì những điều anh nghĩ, anh muốn, không còn cần thiết phải nói ra.

Trong một căn phòng, không phải bên cạnh sông Hương mà ở ngay giữa lòng thành phố Montreal. Bên ngoài tuyết rơi, chúng tôi ngồi với nhau, những người bạn cũ. Hát lại những bài hát ngày xưa. Hoặc những tình ca mới. Mỗi người một ly rượu, khói thuốc mù mịt, mỗi người ngồi sát nhau trên chiếc thảm, trước lò sưởi... Không ai cảm thấy lạnh. Không chút lạnh lẽo nào giữa chúng tôi trong căn phòng nhỏ. Anh hát đi. Không, Mai hát đi. Giang hát đị Mai ngâm thơ đi... "Mà sao giấc ngủ không dài. Mà đêm không ngắn mà trời cứ mưa. Ở đây tôi sống như thừa. Có đem men rượu tẩm vừa lòng nhau" (NB)

Cũng mùa đông, một đêm nào đó, 1974 ở nhà anh chi Lê, ở Huế. Ngôi biệt thự bên cạnh sông Hương. Ngoài trời cũng tối và lạnh như đêm nay. Mùa đông ở Huế. Chúng tôi cũng ngồi bên nhau như hôm nay. Lúc đó tôi vừa 30 tuổi. Tóc vẫn còn xanh. Lòng còn tha thiết yêu đời sống. Một buổi sáng tôi bỗng thấy mặt trời lên cùng tôi và biển cả. Nước mắt tôi tuôn như mưa. Tôi nhớ mùa đông ở Huế. Mùa đông ở Huế và anh.

17 mùa đông lặng lẽ đi qua, tôi vẫn nhớ những ngày âm u lạnh lẽo của Huế. Tôi có thể quên nhiều điều, tôi có thể quên tất cả để chỉ nhớ về những con đường của Saigon - nơi tôi đã ở và đã từ đó ra đi... nhưng không bao giờ tôi quên được những ngày tháng ngắn ngủi, vội vàng ghé Huế. Ðến vội vàng. Ði vội vàng mà chẳng thể nào quên được. Một thứ tình lạ thường đã trói buộc Huế trong trái tim tồị Một trói buộc mơ hồ nhưng mạnh mẽ, đằm thắm. Tôi lớn trong hơi thở có Huế. Chính Huế cho tôi hơi thở.

Bây giờ là cuối đông. Những bông tuyết bay trong chiều, đậu trên những cành cây trụi lá, gầy guộc. Chúng tôi đi bên nhau. Tia nắng dịu dàng đậu trên những bông hoa nhỏ bé, lấp lánh, tấm thảm dầy trắng tinh, chỉ có vết chân bé nhỏ của những chú sóc nghịch ngợm chạy tới ăn những hột bắp rang no bụng mà anh liệng ra để dụ chúng lại gần. Anh cười vui, ánh mắt long lanh thơ dại. Tôi ít thấy anh cười mà cũng không bao giờ thấy anh tỏ vẻ buồn bã.

Chúng tôi tìm đến một thân cây lớn, một nửa ngập dưới tuyết, ngồi nghỉ chân. Tuyết vẫn rơi. Chỉ có hai chúng tôi giữa một vùng trắng mênh mông yên lặng. Chẳng lẽ không có gì để noí, không còn gì đáng nói sau mười mấy năm vắng nhau? Có chứ. Anh đã noí, không phải với riêng tôi, mà ở những bài hát. Tôi đã nghe và hiểu từ đó...

"Có đường xa mà gió chiều quạnh quẽ. Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên... Tôi là ai mà còn khi đau lẻ. Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là ai. Là ai. Là ai mà yêu quá đời này... Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo. Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo..."

Tôi bỗng thương anh thêm và càng quý trọng những giây phút bên anh. Cũng vội vàng, ngắn ngủi như những lần tôi ghé Huế. Tuy nhiên, tôi nghĩ, như thế có lẽ tốt hơn. Bởi vì những điều như thế đã cho tôi cái cảm tưởng là không hề bao giờ, giữa chúng tôi có cái khoảng cách 17 năm. Lá vẫn rơi trên lối chúng tôi đi. Những khóm hoa nắng vẫn lấp lánh trên đường chúng tôi đi. Tất cả vẫn rất còn rực rỡ.

Quay về căn phòng nhỏ. Ánh lửa như hồng thêm, ấm áp thêm bên ly rượu màu hổ phách, cay nồng. Cởi áo lạnh ra, trông anh gầy hơn xưa nhiều song so với lần gặp nhau ở Paris 1989, anh có vẻ khỏe hơn. Bên cạnh anh là Hoàng Xuân Giang của quán Văn ngày xưa. Giang đã có vợ, con gái lớn rồi. Hoàng Xuân Sơn cũng đùm đề một gánh thê nhi nặng trĩu hai vai. Phạm Nhuận to béo hơn xưa, vui vẻ cười nói ồn ào bên cạnh Hoàng Xuân Sơn nhỏ nhẹ thư sinh. Hoàng Xuân Giang vạm vỡ khỏe mạnh như loài cây hoang trong rừng già và anh, anh mỏng manh và thật đằm thắm. Nhìn quanh, tôi thấy như mình đang sống trong thần thoại 20 năm là đây. Chỉ ở một buổi chiều cuối đông tại thành phố Montreal. Còn ai nữa nhỉ? Chắc chắn là còn thiếu một vài người. Trong tôi, một thoáng ngậm ngùi.

Chúng tôi chia tay nhau, dưới ánh đèn đường vàng vọt, trước cửa nhà anh Quế. Mai gặp lại. Anh và tôi trở về nhà Tâm. Nỗi vui làm tôi khó ngủ như ngày xưa sau mỗi buổi hát, chúng tôi thường ngồi lại với nhau, chia cho cạn niềm vui còn sót lại. Những niềm vui không thể để vung vãi, bỏ phí. Phải uống hết, phải nuốt hết vào lòng. Chúng tôi đã sống bằng những niềm vui không nhiều trong đời. Tôi tự cho mình là cái bóng của anh và cũng được hưởng niềm vui đó.

Tôi mở cửa phòng rất nhẹ. Anh đã ngủ yên. Chỗ tôi nằm cách chỗ anh một sải tay. Tôi khẽ nằm xuống, kéo mền len, nhắm mắt dỗ giấc ngủ. Tôi nghĩ lát nữa đây, khi mặt trời lên trên thành phố này, khi tôi thức dậy, tôi sẽ nhìn thấy anh. Tuyết vẫn bay ngoài cửa sổ nhưng ngày sẽ đẹp.

Anh dậy rất sớm và việc làm đầu tiên trong ngày của anh là ra khỏi nhà. Tìm đến một quán Cafe, ngồi đó hút thuốc và nhìn người qua lại trên đường phố... "phải nhìn thấy mọi người, một ngày không thấy ai, buồn dễ sợ". Tôi nhìn anh cười không nói. Cái nhìn và nụ cười là câu trả lời. Ngày xưa anh cũng thế. Chúng tôi cùng nhau xuống phố. Vẫn im lặng đi bên nhau với nỗi hân hoan hạnh phúc không thành tiếng..." Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi. Ðường đến anh em, đường đến bạn bè. Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát. Ðể thấy tiếng cười rộn rã bay..."

Ðó là những điều rất thật thà anh đã nói, đã làm, để sau cùng "Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống, vì đất nước này cần một trái tim. Và như thế tôi đến trong cuộc đời. Và như thế tôi sống vui từng ngày. Ðã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi".

Tôi thấy anh yêu đời thật sự. Anh cười với ông Phạm Duy, ông Trầm Tử Thiêng, ông Duy Khánh và các bạn qua điện thoại. Anh hát và chỉ cho tôi, cắt nghĩa cho tôi những bài hát mới. "Nhớ đừng có hát như trả bài nhé.". Giọng anh hát khỏe hơn lần gặp ở Paris. "Thôi anh hát đi, anh hát hay hơn em". Anh cười, mắt anh cũng cười "Anh bao giờ cũng hát hay hơn Mai". Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày tháng của nam 1967. Chúng tôi những người bạn nghèo, đến với nhau, gắn bó không ngờ. Gia đình anh giầu, gia đình Hoàng Xuân Sơn, Hoàng Xuân Giang cũng giầu, nhưng cá nhân chúng tôi đều nghèo. Một đĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cũng hút, một ly cafe cũng uống. Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhầu nát trải dưới đất. Tình bạn, tình anh em nảy mầm ở đó. Quán Văn, cái tên quán dễ nhớ và dễ thương, mọc lên chơ vơ giữa lòng Saigon trăm ngàn màu sắc. Những tấm ván ép hư bể, được ghép lại, nhỏ hơn cái bếp ở đây, chỉ dành làm chỗ pha cafe. Mọi người tới tùy tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại. Ðó là nơi gặp gỡ đẹp đẽ nhất của một thời tôi còn trẻ. Chúng tôi không hề biết ngoài đời có gì vui. Chúng tôi không cần biết vì niềm vui đã có. Rất đơn sơ mà thắm thiết không rời. Ðến với nhau qua sự run rủi của định mệnh. Không thề thốt, không hứa hẹn. Ðến và ngồi với nhau. Một lần rồi thì có nghĩa là mãi mãi. Giang đó, Sơn đó, Nhuận đó, Thảo đó, Anh và tôi... từ những ngày lăn lóc đó cho đến bây giờ vẫn không dời đổi. Qua những bài hát của anh, sự kết hợp những người trẻ thật khít khao vừa vặn. Ai đến cũng được, ai đi cũng được... "Em theo đời cơm áo. Mai ra phố xôn xao. Bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo...". Tôi có cảm tưởng đó là một lời trách móc anh dành cho tôi. Rất dịu dàng như bản tính anh. Từ bao nhiêu năm nay, câu hát đó theo tôi như một vết thương. Ðời cơm áo quả thật đã cho tôi lắm ê chề, khổ đau, nhưng những ngày yêu dấu bên anh và bạn bè đã chẳng bao giờ tôi quên... dù đời sống có làm tan vỡ, có làm chìm sâu những mơ ước của một đời người - thì trong trái tim bầm dập của tôi, những ngày tháng cũ vẫn là một điểm son, là một bám víu cuối cùng và duy nhất...

Khánh Ly tâm tình trong DVD "Thuở Ấy Mưa Hồng"
1.Tuổi Đá Buồn:

Trời còn làm mưa … mưa rơi mênh mang
Từng ngón tay buồn … em mang em mang
Đi về giáo đường …ngày chủ nhật buồn
Còn ai còn ai ….
Khoảng thời gian đó cũng là lúc mỗi chiều tôi phải tới nhà thờ Chánh tòa Dalat để học giáo lý . Và đúng, bài “Tuổi Đá Buồn” là 1 trong những bài hát nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tập cho tôi cùng lúc với bài “Xin mặt trời ngủ yên”, bài “Tiếng Hát Dạ Lan”, bài “Phúc âm Buồn”. “Tiếng Hát Dạ Lan” sau này ông đổi thành “Dấu Chân Địa Đàng”, “Phúc Âm” thật ra lúc đầu tiên chỉ có cái tựa là “Phúc Âm” nhưng tôi nhìn cái bản thảo của ông để trên bàn, và vì tinh nghịch cho nên tôi thêm chữ “buồn” ở đằng sau và tôi cũng không ngờ là khi ông in ra thì ông vẫn giữ chữ “buồn” đó cho bài “Phúc Âm Buồn” .

Tôi phải nói một cách khẳng định là ông chưa hề bao giờ nói rằng bài hát này ông làm cho người này, hoặc bài hát kia ông làm cho người nọ. Có thể sau này bạn bè dựa vào những những bài hát đó, vào những khoảng thời gian đó mà gán ghép những bài hát ông viết cho một người nào đó ông được quen biết trong thời gian bài hát được thành hình. Nhưng chính vì cái điều ông không nói là viết cho ai cả cho nên mỗi khi tôi trình bày những bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đều có cái cảm tưởng là ông viết bài hát đó cho tôi, và tôi đã hát bằng tất cả sự rung động thật thà nhất của trái tim mình.
2. Như Cánh Vạc Bay: Năm 67 tôi gặp lại ông ở Sàigon, ông đưa cho tôi bài “Như Cánh Vạc Bay”, ông kể lại một kỷ niệm đẹp đã xảy ra trong khoảng thời gian ông ghé thăm Dalat. Đó là một buổi chiều ông và một người con gái, không biết là ai, đi dạo chơi ở trong rừng, và ngừng chân ở bên một con suối nhỏ, ông ngồi nghỉ ở gốc cây và nhìn theo người con gái đó với đôi chân trần đã bước đi qua con suối nhỏ, nắng … vàng rực rỡ trên mái tóc, và trên toàn thân của người cô gái đó, gió thổi tung bay tà áo và mái tóc của cô. Ông giữ cái hình ảnh đẹp của người con gái đó và viết tình khúc “Như Cánh Vạc Bay”

Suối đón từng bàn chân em qua
Lá hát từ bàn tay thơm tho
Lá khô vì đợi chờ
Cũng như đời người mãi âm u

Nơi em về ngày vui không em
Nơi em về trời xanh không em
Ta nghe từng giọt lệ
Rớt xuống thành hồ nước long lanh.
3. Mưa Hồng: “Mưa Hồng” là một ca khúc đẹp, đẹp cả về nội dung và ta thấy cả cái hình thức thật là tuyệt vời bởi vì chúng ta khó có thể tìm ở đâu được hàng cây hai bên đường giao nhau như hai người tình đang cúi đầu lại thật gần nhau, đó là những hàng cây phượng vĩ, và bóng những người con gái khi tan trường về thì đi giữa những hàng cây đó, một cơn gió mạnh thổi đến và hoa phượng đã rơi, đã bay như lấp lối, như ngăn chân người con trai đang đứng ngó theo bóng dáng của những người con gái xinh đẹp đi học về. Đường phượng bay mù không lối vào..hàng cây lá xanh gần với nhau..

Rồi Em đi về cầu mưa ướt áo…cái điều đó mình có thể hiểu là “em đi về em đi qua chiếc cầu và trời bỗng đổ mưa”, nhưng mình cũng có thể hiểu là “em đi học về khi đi ngang chiếc cầu đó em mong cho trời đổ mưa”, bởi vì hãy tưởng tượng chiếc áo dài của người con gái Việt Nam đẹp như thế nào và khi trời đổ mưa chiếc áo đó sẽ để lại những hình ảnh tuyệt vời dưới con mắt của một người đứng dõi nhìn theo bóng dáng của người con gái đó …”

Đồng thời qua cái đẹp của bài hát, của những hình ảnh của những bông hồng đã đi và quanh cuộc sống ông tìm ra cái chân lý “Cuộc đời rất là ngắn ngủi. Tình yêu thì vô cùng nhưng cuộc sống thì hữu hạn”, và do đó ông mới thấy rằng cuộc đời đó ngắn lắm cho nên chúng ta đừng nên hờ hững với cuộc đời, từ cái chân lý đó ông đã sống với, sống cho, sống cùng với hạnh phúc, với khổ đau với mọi người trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống cho đến cuối cùng.

Nay em đã khóc chiều mưa đỉnh cao
Còn gì nữa đâu sương mù đã lâu
Em đi về cầu mưa ướt áo
Đường phượng bay mù không lối vào
Hàng cây lá xanh gần với nhau

Người ngồi xuống xin mưa đầy
Trên hai tay cơn đau dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ
4. Chiều vàng: Tôi đã nói về cái nguyên nhân thúc đẩy tôi chọn nghiệp dĩ ca hát, mặc dù không bao giờ tôi nghĩ là tôi sẽ được gọi là “ca sĩ” và được nhiều người yêu thương . Nhưng ngay từ nhỏ, có thể nói là tôi biết nói cùng lúc với tôi biết hát. Tại vì từ trận đói 45, gia đình chúng tôi chạy mãi đi mãi ở trong rừng suốt 5 năm như vậy. Và bố tôi thì cứ chiều nào ông cũng ủ tôi trong chiếc áo bông mặc dù giữa rừng già hay là giữa những làng xóm nghèo nàn ở miền Bắc nơi chúng tôi đi qua, ông ôm tôi lên đồi và với cây đàn mandoline ông hát những tình khúc tiền chiến, mà tôi nhớ nhất là bài “Chiều Vàng” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh.

Sau này khi tôi trình bày cái bài hát đó ở phòng trà Anh Vũ thì tôi ước mong là trong số những người ngồi nghe có sự hiện diện của bố tôi nhưng rất tiếc lúc đó tôi đã trở thành một đứa trẻ mồ côi !

Và chắc chắc là bố tôi cũng không thể hiểu được, không bao giờ nghĩ đến rằng những bài hát đầu đời của ông đã gây một ấn tượng rất là sâu đậm trong lòng tôi như thế nào, bởi vì đó là những bài hát quá buồn cho một đứa bé … và những cái ảnh hưởng của những nỗi buồn trong tình khúc “Chiều Vàng” có lẽ đã, đang và sẽ theo tôi đến suốt đời

Trên đồi xanh chiều đã xuống dần
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời
lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn
buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ tới người
Chiều xưa cũng trên đồi cùng ta
Người đã ước nguyền rằng đời riêng có ta
Lời đó còn đâu?
5. Ngủ Đi Con: Nếu xét về trên phương diện lịch sử, thì lịch sử là lịch sử không ai có thể thay đổi, hay bẻ cong, hay vo tròn hay bóp méo. Thì cuộc chiến Việt Nam là cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc, là cuộc tương tàn giữa hai miền Nam Bắc đã được lịch sử ghi lại và trong lòng của tất cả người Việt Nam cả hai miền Nam Bắc, tôi nghĩ là không ai có thể quên cái giai đoạn đó, một giai đoạn có rất nhiều mất mát cho cả hai phía: miền Bắc và miền Nam. Đương nhiên những mất mát đó không thể nào tránh khỏi trong tất cả những cuộc chiến, người mất chồng, người mất con, nhưng đứa trẻ mất cha. Người ta có thể quên đi những cuộc vui, nhưng những nỗi buồn khi đã trở thành những vết thương thì dẫu có lành cũng để lại dấu vết trên da thịt và trong trái tim của tất cả những người Việt Nam

Hò ho ho hó.. ho ho hò, con ngủ, ngủ đi con
Đứa con của mẹ da vàng
Ru con ru đạn nhuộm hồng vết thương
Hai mươi năm .. đàn con đi lính
Đi rồi không về, đứa con da vàng của mẹ
Ngủ đi con ...
6. Em Đi Trong Chiều: Năm đó tôi mới ngoài hai mươi, tôi gặp anh rất là tình cờ trong một buổi hát khao quân sau trận Hạ Lào. Rồi thời gian qua đi, đến năm 74 tôi tình cờ gặp lại anh khi tôi ra Huế để thăm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn . Tôi không phủ nhận cái điều là “tôi yêu anh và anh yêu tôi”. Đó là tình yêu đầu tiên của tôi ở lứa tuổi ngoài hai mươi, gần ba mươi, tôi mới biết thế nào là tình yêu. Cuộc tình của chúng tôi cũng khốc liệt như cuộc chiến , mặc dù chúng tôi chỉ được gặp nhau không quá mười lần, đôi khi ngồi tại phi trường và nói chuyện với nhau rồi tôi lên máy bay trở vào Saigon, còn anh anh trở ra mặt trận .

Anh kẹt ở bãi biển Sơn Chà, Đà Nẵng, và khi Đà Nẵng mất anh không trở về. Tôi có hỏi thăm, tôi đi tìm ở các nơi nhưng không ai thấy anh, không ai nói được một điều nào đích xác về sự mất tích của anh. Tôi đã sống với cái hy vọng được gặp lại anh trong suốt 15 năm, và phải qua mười lăm năm đó, tôi phải tự nói với mình “Quả thật anh đã chết, anh đã không còn nữa …”

Tôi vẫn tôn thờ cái hình ảnh và tình yêu đó là bởi vì đó là tình yêu đích thật mà tôi có trong đời sống của tôi.

Em đi qua cầu có gió bay theo
Thổi bùng khăn tang trắng giữa khung chiều
Em đi qua cầu có lá xôn xao
Một giòng sông sâu chở hồn thương đau

Em đi qua cầu chở chiều trên vai
Ngậm buồn trên môi trái tim đã hoài
Một người nằm xuống,
Một người nơi đây
7. Diễm Xưa: Dạ đúng, tôi có được một cái may mắn là đi hát gần như khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng tại sao tôi lại được người Nhật thích ! Thật ra người Nhật thích nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và tôi được thích..tôi được họ mời, họ đón nhận, và họ để ý đến là qua nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và với sự giới thiệu, gửi gấm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Khi họ mời ông đi qua tham dự Hội Chợ năm 1970. Bởi ông đi không được, cho nên ông giới thiệu tôi với đài truyền hình NHK. Và kể từ đó tôi được người Nhật coi như là tiếng nói chính thức trong nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
8. Hạ Trắng: Tôi nhận được một bó hoa từ một nữ danh ca rất nổi tiếng ở bên Nhật là bà Takiko Kato, bà là người Nhật Hoa và bà có một đời sống mà cái hoàn cảnh, những điều xảy ra nó gần gần giống như đời sống của tôi, do đó bà rất thích tôi và chúng tôi gần như là kết nghĩa chị em với nhau . Sau nhiều năm gặp lại bà vui mừng và tôi nhắc đến bó hoa bà gửi tặng tôi năm 70 thì bà cười và bà mời tôi tham dự buổi trình diễn Nhạc Hội Mùa Hè của bà, bà nói là bà sẽ từ giã khán giả và tôi được cái may mắn trở lại Nhật để hát cùng với bà Takiko Kato trong buổi trình diễn Nhạc Hội Mùa Hè đó của bà. Bà viết tặng tôi một bài hát, bà lấy cái tựa là “Đừng nói giã từ, chứng ta sẽ gặp lại nhau” “Don’t say good bye ! See you again !”

Gọi nắng! Cho tóc em cài … Loài hoa nắng rơi
Nắng đưa em về … Miền cao gió bay
Áo em bây giờ … Mờ xa nẻo mây
Gọi tên em mãi . Suốt cơn mê này...
9. Quỳnh Hương10. Ru Tình: Tôi nghĩ rằng nếu quả thật nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có một tình yêu dành cho một người nào đó thì chỉ có một mà thôi và người đó là mối tình đầu tiên của anh, như quý vị và các anh chị đã biết, đã nghe “Diễm Xưa” thì Diễm là tình yêu đầu tiên và cũng là cuối cùng của anh. Trên hết anh dành tất cả tình yêu của anh cho bà mẹ vì bà là mẹ nhưng đồng thời cũng là người bạn của anh. Anh thường hát cho bà nghe những ca khúc anh vừa sáng tác, đôi khi bà góp ý ở chỗ này đôi khi bà góp ý ở khúc kia. Thì “Ru Tình” khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết, bà không còn nữa, thì tôi nghĩ là anh ru tình yêu của anh, chứ anh không ru tình yêu của ai cả . Mặc dù vậy, nhưng chính vì cái điều anh không ru tình yêu của ai cả cho nên mọi người khi hát vẫn có cái cảm tưởng như là “ô nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết bài này cho tôi”. Đó là cái cảm tưởng chung của mọi người biết anh. Và cái cảm tưởng chung của mọi người khi nghe nhạc của anh, những người biết anh thì nghĩ rằng, như tôi chẳng hạn, thì nghĩ rằng bài này có mình trong đó . Còn những người không biết anh thì họ cảm thấy là họ được an ủi … xin em ngồi yên nhé….tôi tìm cuộc tình cho… “em cứ đi đi em cứ vui chơi trong cuộc đời này đi rồi một lúc nào đó khi em trở về, em không còn gì nữa em đừng than khóc, đừng buồn đau, em cứ ngồi đó tôi sẽ đi tìm cho em một cuộc tình, hay tôi sẽ tìm cho em một tình yêu”. Có thể tình yêu đó là tình yêu của một người cha, của một người anh, tình yêu của một người bạn, nhưng đó là một nỗi an ủi cho người con gái khi mà người ta đã mất hết . Và đó là lý do mà tại sao mà nhiều người yêu nhạc phẩm “Ru Tình”

Ru em đầu cơn gió, em hong tóc bên hồ
Khi sen hồng mới nở, nụ đời ôi thơm quá
Ru em tình khi nhớ, ru em tình lúc xa
Ru cho bầy lá nhỏ, rụng đầy một mùa Thu

Ru khi mùa mưa tới, ru em mãi yêu người
Ru em hoài bé dại, một hồn thơm cây trái
Ru em chờ em nói, trên môi tình thoát thai
Ru em ngồi yên đấy, ru tình à ..ơi
11. Tôi Ru Em Ngủ: Khi tôi biết anh đến Canada, dĩ nhiên là tôi không thể không đến được, bằng bất cứ mọi giá tôi phải bay đến gặp anh. Bởi đó cũng là cái điều tôi ao ước trong rất nhiều năm. Tôi đến dẫu là chỉ được nhìn thấy anh mà không nói gì cả, thường thường thì anh và tôi nhiều khi ngồi với nhau cả một ngày, đi với nhau cả một buổi cũng chẳng nói với nhau một điều gì, nhưng tôi hiểu những điều anh muốn nói, thật là tình cờ ở những khúc hát tự nhiên buột ra khỏi miệng anh, và anh cũng hiểu là tôi đã nắm bắt được cái ý mà anh muốn tôi phải hiểu. Do đó chúng tôi có rất nhiều ngày tháng, giờ phút im lặng bên cạnh nhau, đi với nhau, có lẽ là suốt cả một cuộc đời. Sự im lặng nhưng là sự im lặng chia sẻ và đồng cảm đồng điệu giữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và tôi đã có từ những giây phút đầu cho đến mãi sau này .

Kỷ niệm đẹp thì khi anh được tòa đại sứ Canada hỏi là “Tại sao mà vous lại xin vào Canada”. Thì anh nói, anh kể lại cho tôi nghe, anh nói rằng lúc đó anh cười và anh bảo rằng “tại vì tôi muốn thấy tuyểt, tôi chỉ thấy tuyết trong phim ảnh, trong hình thôi, tôi chưa bao giờ thấy tuyết thật cả” ! Khi anh đến Montréal là tháng ba, thì thường thường tháng ba không còn tuyết nữa, vậy mà sau cái ngày tôi đến gặp anh thì trời tự nhiên tuyết đổ, chỉ trong một đêm thôi là tuyết phủ đầy tất cả những mặt hồ, phủ dầy tất cả những cái băng đá ở công viên và những bãi cỏ, thì tôi với anh, hai anh em lặng lẽ đi trên tuyết, ngồi trên tuyết và đùa với những con sóc nhỏ.

Anh vẽ tôi, khi tôi đang ngồi ăn, trên tờ giấy napkin. Anh vẽ tôi khi tôi đang vô tình ngồi đấu láo với bạn bè, rồi có một lúc tự nhiên tôi đang bới tóc tôi bỏ tóc ra thì anh la lên, anh nói: “Tại sao lại bỏ tóc ra?” Ồ tôi nghĩ là anh luôn luôn anh thích tôi bới tóc với một cái bút chì găm ở sau búi tóc đó, thì tôi lại búi tóc lại cho anh.

Chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm đẹp. Anh thấy một người Canadian đi qua đội một cái nón, anh chỉ anh nói: “Ô cái nón đẹp quá !” thì lập tức nhà tôi chạy theo cái người đó, thì tôi với anh đi vào trong quán café, một lát sau nhà tôi chạy trở lại đưa anh cái nón và anh rất là ngạc nhiên: “ Ủa Đoan, sao toa tài quá vậy? Làm sao mà toa lấy được cái nón này? Thì nhà tôi cũng nói giản dị thôi, nhà tôi bảo là … thì Đoan hỏi cái ông đó, ông đó nói là cái nón này bây giờ nó không có ra nữa, ông ta mua từ cách nay cũng hai năm rồi, nhà tôi mới hỏi là bây giờ ông có thể bán lại cho tôi cái nón đó được không? Thì ông kia thấy là cái nón đó ông đã đội rồi, bây giờ có người muốn mua, ông đồng ý liền ông bán cho nhà tôi cái nón đó liền, mấy chục tiền Canadian gi đó và nhà tôi thì rất là sung sướng cầm cái nón đó tặng lại cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Những cái điều nho nhỏ như vậy làm cho ông rất là vui và ông nói “Thôi Đoan ngồi nghỉ đi, mình uống ly café hay ly rượu gì đó một tẹo”, ông hay dùng chữ “một tẹo”, tôi không hiểu cái chữ đó tiếng Bắc hay là tiếng Trung nhưng ông hay dùng “một tẹo rồi mình đi về nhà ăn cơm”.

Tôi ru em ngủ một sớm mùa đông
em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ một sớm mùa thu
em đi trong sương mù gọi cây lá vào mùa
12. Biển Nhớ: Đúng là tôi đã trình bày cả mấy trăm bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Và mỗi bài đều… Ở mọi nơi đều để lại cho tôi những cái kỷ niệm, nhưng có một kỷ niệm mà tôi nhớ là khi bức tường Bá Linh nó mới chỉ được đục 1 cái lỗ nhỏ thôi, nghĩa là vừa đủ để cho người đi qua là chúng tôi đã có mặt, bởi vì lúc đó chúng tôi đang ở bên Đức , và đã có mặt, để đi qua Đông Đức để hát cho những người Việt Nam nghe, đó là những người Việt Nam từ Việt Nam đi qua bên đó để làm việc . Một buổi hát rất là cảm động, và mọi người, một em gái - nói là em bé tại vì tôi lớn nên tôi gọi là em bé - đã tặng cho tôi một cái hoa, một cành hồng giả làm bằng nhung, em cho biết là mặc dù bị cấm đoán nhưng mà em và các bạn vẫn đến để nghe chị Thanh Tuyền và chúng tôi hát. Rồi em cho biết quê em ở Hà Nội, rồi em khóc, rồi tôi khóc, rồi cả hội trường khóc, ban nhạc khóc, ca sĩ khóc, tất cả mọi người cùng khóc cả . Buổi hát diễn ra rất là cảm động vì như có một sự linh thiêng, rất Việt Nam, rất là nhân bản đã nối kết những người hát và những người nghe.

Sau cái buổi trình diễn đó, tôi nhớ mãi là có hai em trai mà tôi không còn nhớ tên, đã mang lại đãi chúng tôi một nồi cháo gà, không biết hai em nấu từ lúc nào, hay là mua ở đâu hay nhờ ai? Rồi đến khi chúng tôi ăn xong và chúng tôi đi về, đi trên đường từ rạp về đến chỗ mình ở thì tôi thấy hai em đó đi, giữa mùa đông lạnh căm, tuyết rơi như vậy, hai em cầm cái nồi không và đi giữa đường, vẫy tay chào chúng tôi.

Những người Việt Nam làm việc bên Đông Đức ở trong một chung cư, ở khoảng tám chín mười tầng gì đó . Ngày hôm sau khi chúng tôi ra về, thì có những cái cửa sổ mở ra và trên đó có những chiếc radio lớn, nhỏ nhiều cỡ, để ở trên cái bệ cửa sổ và bài hát được mở ra là bài “Biển Nhớ” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, như là để chào chúng tôi vậy hay là ý muốn nói rằng họ sẽ nhớ chúng tôi nhiều như chúng tôi sẽ nhớ họ mãi, thì chị Thanh Tuyền và tôi phải xuống xe để vòng tay vẫy cám ơn nhưng người Việt Nam làm việc ở Đông Đức.

Sau này một số người ở các trại tị nạn cũng kể cho tôi nghe là ở các trại tị nạn mỗi khi mà có những người được đệ tam quốc gia nhận cho định cư thì bài “Biển Nhớ” cũng được sử dụng để người ở lại tiễn người ra đi . Cho nên mỗi lần tôi đi trình diễn thì bao giờ bài “Biển Nhớ” cũng được yêu cầu, và tôi đoán là chín chục phần trăm là những người đã đến Mỹ từ các trại tị nạn, bởi vì đó là một kỷ niệm mà họ không bao giờ quên qua tiếng nhạc, qua bài hát “Biển Nhớ” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn .

Ngày mai em đi
biển nhớ tên em gọi về
gọi hồn liễu rũ lê thê
gọi bờ cát trắng đêm khuya

Ngày mai em đi
đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
sỏi đá trông em từng giờ
nghe buồn nhịp chân bơ vơ
13. Gia Tài Của Mẹ: Khi tôi bắt đầu trình bày những ca khúc da vàng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì tôi biết một điều là những ca khúc này làm không phải để cho một người hát mà để cho nhiều người hát, thí dụ như bài “Nối vòng tay lớn” thường được các anh em sinh viên trong những buổi hội họp hay là trại hè hát, các bạn trẻ trong Gia Đình Phật Tử, trong các Gia Đình Công Giáo, mỗi lần họp trại hè cũng ngồi nối vòng tròn như vậy và hát “Nối Vòng Tay Lớn” . Và khi phái đoàn sinh viên Việt Nam du học từ ngoại quốc trở về thăm Việt Nam, thì cũng cùng nhau hát cái bài “Nối Vòng Tay Lớn” bởi vì những chuyến đi đó được Đệ Nhị Cộng Hòa đặt cho một cái tiêu đề, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Hoàng Đức Nhã mở đầu cho một cuộc trở về của những sinh viên Việt Nam du học ở hải ngoại với cái tựa là “Nối Vòng Tay Lớn” .

Trong cuộc chiến ý thức hệ giữa hai miền Nam Bắc, như tôi và quý vị chúng ta cùng thấy là chúng ta đã mất mát quá nhiều. Một cuộc chiến mà theo tôi không có người thắng mà cũng không có người thua, chỉ là giữa anh em với anh em đánh nhau, giết nhau. Cũng như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói rằng ‘Hãy lật xác quân thù ra thì thấy mặt người Việt Nam trên đó”. Và dẫu thế nào đi chăng nữa thì ông cũng nghĩ rằng cái ước mơ thanh bình sau cuộc chiến là những điều ông mơ ước và cả dân tộc mơ ước . “Chúng ta hãy giữ gìn mãi cái gia tài của mẹ, dù đó là một gia tài, một đất nước đã tan hoang, đổ nát nhưng chúng ta hãy xây dựng lại cho quê hương của chúng ta đẹp đẽ hơn, tự do hơn, thanh bình hơn, no ấm hơn” . Đó là cái mơ ước không phải riêng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mà của tất cả những người Việt Nam và qua những ca khúc da vàng là những ca khúc đầy nhân bản .

Và như thế đó, nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn được nhiều người hát, nhiều người nhớ đến, nhiều người ở mọi lứa tuổi, mọi giai cấp. Bởi nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã cho chúng ta tình yêu đôi lứa ở tuổi thanh xuân, và cũng đã chia sẻ với chúng ta những mơ ước của một người Việt Nam về tổ quổc, về quê hương, về một đất nước Việt Nam. Cái mơ ước được nhìn thấy, được sống trong một đất nước thanh bình, no ấm và tự do, được sống với nhau, cùng với nhau không thù hận.

Dẫu rằng người có cái mơ ước đó đã đi xa nhưng cái mơ ước đó lúc nào cũng cháy bỏng, cũng sáng rực trong lòng những người Việt Nam ở mọi lứa tuổi, thế hệ sau của chúng tôi. Một ngày nào đó tôi sẽ không còn gặp lại quý vị, nhưng tôi chắc là những người bạn trẻ của tôi được sinh ra sau cuộc chiến hoặc lưu lạc ở trên khắp thế giới cũng sẽ tiếp tục hát lên cái ước mơ của một người nhạc sĩ đã sống hết cuộc đời của mình và đã chết cho những mơ ước của mình, dẫu đó là những mơ ước chưa thành sự thật .

Nguồn: DVD "Thuở Ấy Mưa Hồng"
Xin Trả Nợ Người
Ở đời, riêng đời tôi, có nhiều món nợ tôi không hề muốn vay nhưng gặp và phải nhớ mãi, phải luôn luôn nhủ với lòng mình rằng sẽ có một ngày nào đó, mình phải làm một cái gì đó cho người mình mang ơn, dù ngay chính người đó, khi đưa tay cho mình nắm lúc ngã, cũng không hề nghĩ rằng họ đang làm ơn, và sẽ có ngày ..bị trả ơn. Chưa bao giờ tôi cho tôi là một người tốt, đẹp, hoàn toàn, trái lại, tôi có rất nhiều tật xấu . Chỉ được một điều, đã tự cho là mình nợ ai một món nợ, dù ly nước, tấm bánh, một lời hỏi han an ủi, thì ngàn đời không quên . Và tôi thấy mình nợ tất cả mọi người bởi trên đường đời, quả thật tôi đã may mắn gặp nhiều người tốt . Chưa ai từ chối mở lòng ra, khi tôi tìm đến .

Có lần tôi bảo nếu một đời người mang quá nhiều “nợ đời” trên vai, cuộc sống cũng thật tộp nghiệp. Nợ có nhiều loại khác nhau . Nợ ân. Nợ oán. Nợ tình . Nợ tiền. Nợ nhân. Nợ nghĩa .Nợ nào tôi cũng mang, trừ …oán thù . Không bao giờ tôi để lòng thù oán ai . Buồn thì có . Mà chắc cũng chẳng có ai để tâm thù oán tôi . Có thể không thích, không chơi nhưng thù thì không. Thế thì cuối cùng tôi là người mang nợ nhiều . Nợ đời và nợ người . Nợ đời, lúc nào hết biết ngay . Nợ người không nên để đến kiếp sau . Bởi ai cũng cầu mong cho mình một kiếp sau nhẹ nhàng hơn. Thế cho nên lỡ có nợ ai ráng mà trả cho xong, cho nhẹ . Tốt hơn hết là đừng nợ, nhưng (chữ này không khá được) …ai không nợ, không phải là người .

Chả bao giờ tôi nghĩ mình có duyên hay nợ với chữ nghĩa . Cái bằng tiểu học tôi còn không có thì làm sao có thể nói đến chữ nghĩa với ai . Ấy thế mà Trời Ðất đã an bài mọi chuyện. Ðầu tiên là gặp Ðoan rồi trở thành cái xương sườn của Ðoan, phụ giúp việc vặt cho Ðoan và Du Miên bằng cách đánh dấu bài cho 80 trang báo Hồn Việt . Ðoan là người đầu tiên khuyến khích tôi viết về đời tôi với số tiền 300 đô cho một bài . Lúc đó đầu năm 76, 300 đô là một số tiền đáng kể vì show đầu tiên của tôi ở Mỹ chỉ có 80 đô . Tôi khởi đầu viết về cuộc tình ..nửa đường gãy gánh của mình với cái tựa “ Gửi Người Suối Bạc” . Bài viết được ba, bốn kỳ gì đó, mới lãnh được vài kỳ lương, tôi đã bị Ðoan xin bàn tay để .. đánh dấu bài, rửa chén, nấu cơm, giặt quần áo, chùi nhà tắm và rửa đít cho con .

Quả là cái số, chữ nghĩa chưa kịp gần đã xa, dù sau đó một đôi lần tôi được góp mặt trên báo Hồn Việt . Tôi thật sự không ham muốn hay chú ý đến cái vụ viết bài chạy nhật trình vì đây không phải là sở trường, là tham vọng của tôi . Bởi tôi cũng biết trong đời tôi, nết có làm được một việc gì ra hồn thì đó là ... hát . Và tôi đã làm. Chấm hết . Nhưng (sẽ có rất nhiều chữ Nhưng và Nếu trong đời tôi) rồi một phần thì giờ của tôi đã dành cho những mục tâm sự với độc giả khắp nơi . Người khuyến khích tôi lần này không phải là Ðoan mà là ông em Du Miên . Không hẳn là khuyến khích nhưng là một cái gì tôi không cắt nghĩa được … “Chị Mai, cho bài nhé”. Thế thôi . Tôi gọi cái này là một hành động …“Bóp cổ, không cho la”. Cái lạ là không bao giờ tôi nói chữ “không” với Du Miên.

Mới bán Hồn Việt, chưa kịp mừng dù người mua lại báo là ông Ðỗ Ngọc Tùng chơi cái ..tình chạy 16 ngàn đô . Mới qua Mỹ có vài năm, tụi tôi mất tiền đã vài lần, mà mất nhiều hơn nhiều, lần nào cũng cháy túi, cạn láng nên đã có phần quen quen . Buồn làm quái gì . Tiền đôi khi, có thể luôn luôn là cục xương khó nuốt . Ðời còn dài mà, đã hết đâu . Mình có dư thì giờ để xem đời nó sẽ đưa mình, đưa người đến đâu . Ðã bảo là tôi ghét báo, ghét luôn người làm báo . Bắt được Ðoan bỏ nghề, mất tiền, tôi lại cảm thấy nhẹ nhỏm như vừa trút được gánh nặng ghê gớm của các ông các bà làm báo đã đè lên vai tôi mấy năm . Phải thành thật mà nói, thời gian Ðoan làm báo là một nỗi kinh hoàng đối với tôi, làm cho tôi đã sợ, lại càng sợ hơn những người làm báo . Giờ nói ra điều này, ai muốn chửi, tôi cũng sẵn sàng nghe, kể cả Du Miên .

Chính vì điều này mà Ðoan và tôi hục hặc nhau hoài . Ðoan bênh vực nghề nghiệp bạn bè, đàn anh, đàn chị của Ðoan và để cân bằng, thỉnh thoảng anh …để nhẹ vài quả về nghề nghiệp của tôi . Chiến tranh giữa hai đứa là điều không thể tránh. Không đến nỗi như Desert Storm nhưng cũng rất căng thẳng như tình hình Cuba . Ông anh Ngọc Hoài Phương và ông em Du Miên đã từng chứng kiến những trận thư hùng giữa hai môn phái, một Nhu, một Cương . Không có bom rơi súng nổ . Không đao, kiếm bay vù vù trong nhà, chỉ có bàn đổ, chén bát rơi vỡ tan tành. Tuy nhiên, đó là chuyện của 13 năm về trước . Tụi tui dễ gây, dễ nóng mà cũng dễ hòa, dễ nguội . Nghề nghiệp không phải là tai họa cho đời sống chung hòa bình của hai đứa .

Nhưng cái oái oăm ở đây là sau khi bứt Ðoan ra khỏi cái nghề nghiệp tôi ít ưa, kéo anh vào nghiệp dĩ của mình thì chính tôi lại là người quay trở lại chỉ sau một cú phone của Du Miên, lúc đó làm tờ Trường Sơn. Cũng dịp này, tôi bắt đầu biết Thị Hà Khánh Hội biệt danh của Ngọc Hà . Tôi viết cái mục “Ðời Còn Dễ Thương” cũng khá lâu, viết về vui buồn, trôi nổi của nghề nghiệp, bạn bè . Ðộc giả cũng chấp nhận cái vụ tôi lảm nhảm, dù cũng có người chỉ trích rằng sao cứ nói về ..mình . Rồi Du Miên, cũng lại Du Miên, và chúng tôi đứt giây liên lạc . Cho tới bây giờ, khi ngồi ghi lại kỷ niệm giữa chúng tôi, tôi cũng không hiểu, không biết vì lý do gì . Cứ tự nhiên nhàn nhạt rồi dứt hẳn, dễ cũng có đến mấy năm. Tuyệt không có lấy nửa lời to tiếng .

Tôi chẳng bao giờ quên cái tình thân giữa hai gia đình, song đời sống cuốn xô ở đây không cho tôi thì giờ suy nghĩ tìm hiểu . Tôi lại là người không bao giờ muốn hỏi vì sao và cũng không bao …vờ cải chính bất cứ điều gì . Cái gì rồi cũng qua . Tôi nghĩ vậy, và viết bài cho anh Dzu, cho báo Mai, cho Trần Quốc Bảo . Trong lúc đó tất cả công việc dính líu đến băng nhạc, một mình Ðoan gánh vác, ngoài cái chuyện hát . Nếu tôi, một ca sĩ, được độc giả chấp nhận cho góp bài trên báo thì Ðoan, một người làm báo cũng dễ hội nhập vào ngành sản xuất băng nhạc . Khán thính giả cũng chấp nhận những băng nhạc với tiếng hát của tôi do Ðoan thực hiện .. “Sông có khúc . Người có lúc” …”Sông có lúc . Người có khúc” .

Trịnh Công Sơn đã viết . “Sông vẫn chảy đời sông . Suối vẫn trôi đi đời suối . Ðời người cũng dễ sống và hãy thả trôi đi những niềm đau” . Mà tất cả trôi đi thật dù tôi không biết cái “tất cả” đó là những cái gì nhưng nó đã trôi đi, đã qua thật rồi, hầu như không để lại dấu vết nào, hầu như giữa chúng tôi không hề có khoảng thời gian xa cách, không nhìn thấy nhau, không nói với nhau … “Chị Mai viết bài nhé, cho Thời Báo” . Không có cái vụ Pạc-sơ-cờ lẩm cẩm đàn bà . Còn nghĩ đến nhau như vậy là okay rồi . Thời gian và sự im lặng quả là người “giao liên” tốt . Cũng may, tôi không hề nói hay làm điều gì không nên, không phải trong suốt thời gian … im lặng thở dài, để đến phải ngại ngùng khi gặp lại nhau . Và dù tôi không dám bao giờ gọi đây là trò chơi chữ nghĩa, nhưng tôi quả thật rất vui khi gật đầu hứa giao bài cho Du Miên . Thật ra, tờ Thời Báo nếu không có ba cái bài lẩm cẩm của tôi, nó vẫn có mặt, vẫn là Thời Báo . Người có lợi là tôi . Tôi có cơ hội nói lên cái nỗi lòng của một người ca sĩ, người luôn luôn đi bên cạnh cuộc vui của người khác .

Ðến đây, các bạn sẽ hỏi tôi nợ Du Miên cái gì . Không .Chúng tôi không hề nợ nhau một điều gì, nhưng nếu có điều gì đó ràng buột hai gia đình chúng tôi mà bảo là nợ nhau, thì đó là tình nghĩa . Thế thôi . Có thật không . Với tôi thì có . Còn ai nợ ai thì tôi không biết . Ðã một lần là chị em. Mãi mãi sẽ như thế . Chú Mai Thảo đã chẳng thường nhắc nhở chúng ta … “Ðã đến là ở lại mãi mãi” đó sao ? Một giây phút ngắn ngủi cho nhau điều tốt đẹp thì chỉ nên nghĩ đến điều đó tốt hơn . Không ai làm ơn cho ai cả, nên chắc nợ chỉ là nợ . Chỉ vì … “Ðã đến là ở lại mãi mãi” phải không, thưa chú Mai Thảo .

Tuy vậy, nếu tin vào số mạng thì chị em chúng tôi quả có nợ nhau . Nợ từ kiếp trước kia . Tôi lo cái lo của người làm báo như đó là nghiệp dĩ của chính mình vậy . Nhiều lần đi hát về, tôi thức đến sáng để đánh bài cho kịp lúc Du Miên đưa báo đi in . Có đêm Miên và Thị Hà lên ngồi chơi với Ðoan, chờ tôi gõ lóc cóc ở một góc nhà . Gặp lúc tôi vui, bài toàn tin vui . Ðụng khi tôi nổi cơn điên, thế nào sau khi báo ra, cũng có người kêu hỏi lý do . Thường thì tôi ghi lại những điều xảy ra cho chúng tôi trong tuần . Kể cả những lời nói không mấy êm tai nếu lọt vào tai mắt những nhà đạo đức . Song đó là sự thật mà công việc của tôi là ghi lại giây phút sống thật thà nhất của ca sĩ, nhạc sĩ .

Tôi làm công việc này, một phần ghi lại kỷ niệm giữa chúng tôi, những người đã được cho là …” Hai cô ca sĩ có ưa nhau bao giờ” . Có ai nghĩ ra đấy cũng là sự trả nợ khán thính giả không ? Ít ra là đối với tôi . Bởi tôi quan niệm không có khán thính giả thì không có ca sĩ . Tôi nợ nhiều lắm . Bố mẹ tôi sinh ra tôi, nuôi tôi 16 năm, và sau đó, từ đó đến nay nuôi tôi cả tinh thần lẫn vật chất là những người hoàn toàn xa lạ, đến từ bốn phương trời . Chả có bầu show nào trả tiền cho ca sĩ cả . Bầu chỉ là trung gian. Có lời . Tôi lấy cái gì trả món nợ này ngoài những tâm sự vui buồn thật thà nhất . Ít ra chúng tôi cũng không hoàn toàn vô ơn, bạc nghĩa đối với những người đã chia xẻ cho chúng tôi đời sống . Ðồng tiền của khán thính giả và hơi sức của người ca sĩ bằng nhau . Có điều nếu không đi nghe nhạc, không mua băng nhạc, chẳng ai rụng một sợi lông. Nhưng ca sĩ buồn là một lẽ, còn nhăn răng ra cả đám chứ đừng tưởng. Thế thì tuy được coi như bằng nhau, thí dụ như …người mua, người bán vậy, song rạch ròi ra cho cùng thì tôi tự thấy mình là người chịu ơn .

Trong đêm hát Bên Ðời Hiu Quạnh, dù bạn bè chị em đã từ chối khi tôi mời đi ăn để … thanh toán. Thế là mọi người để cho tôi mang một món nợ lớn. Tôi rất mong được trả . Chỉ cần kêu tôi một tiếng, xin có mặt ngay . Tôi sẽ trả gấp đôi . Mà dù có trả tiền, tôi vẫn cứ nợ cái tình “đã nghĩ đến nhau”. Trong đời sống, có lúc, có nhiều điều tôi cũng lạng quạng lắm. Nhưng đã là ơn thì phải đền . Tôi không áp dụng sự sòng phẳng trong lãnh vực tình cảm. Nó trắng trợn và bạc bẽo quá . Do đó mà …. Sông cứ chảy . Thời gian cứ qua . Tình nghĩa vẫn còn .

Ðây là một chút tâm sự vụn của tôi, cắt nghĩa với độc giả Văn Nghệ Tự Do khắp năm châu cái sự nhảy chồm vào báo của tôi . Có điều gì không nên không phải xin cứ cho tôi ý kiến xây dựng thẳng thắn . Vì là bài mở đầu, nên lời lẽ tôi còn có chút ..lịch sự, nhưng không có gì bảo đảm cho những bài tới bởi lẽ dễ hiểu, tôi không biết, không phải một nhà văn. Chỉ là người ghi chép lại những điều có thật, đã xảy ra . Và sự thật dù có rất vui nhưng không hẳn lúc nào cũng lịch sự, cũng chưa hẳn chúng tôi là những người bất nhã hay kém văn minh .

Ðến đây thì tôi đã bắt đầu rắc rối rồi đấy, chỉ vì con người của tôi, nếu được phép chọn chỗ ngồi giữa một phòng khách lộng lẫy và cái sàn nhà thì tôi sẽ chọn cái sàn nhà . Nó không xấu thêm nữa vì sự có mặt của tôi và nó lại thoải mái hơn nhiều. Tha hồ duỗi tay, duỗi chân, tha hồ mang giày, vung tàn thuốc lá và cũng rất là mát mẻ, thẳng thớm nếu được ngả lưng xuống, như ngày xưa lúc còn nhỏ, tôi khoái nằm trên cái giường lát bằng đá hoa . Cái này chỉ có Bắc Kỳ thứ thiệt mới biết thôi . Trưa hè mà nằm như thế, còn sướng nào hơn .

Kiều Nga và tôi mới vừa cùng hát ở Ohio . Hai chị em được vợ chồng Tấn, người tổ chức nhường phòng. Kiều Nga bảo ..Tối nay chị Mai ngủ với em . Tôi ừ hử rồi cũng chỉ nằm một chút là lò mò tự động đi tìm mền gối trải xuống thảm nằm. Cho chắc ăn . Hát xong …Ăn gì chị Mai ? …Có gì ăn đó, mì gói cũng xong. Kiều Nga OK cái rụp . Tụi tôi sà vào bàn ăn còn nguyên đồ ăn buổi chiều . Tô canh bí nấu tôm khô, chén mắm ruốc và đĩa cà pháo sống. Tụi tôi tự biên tự diễn, tự ăn một mình. Không hề làm phiền đến ai . Trên tàu, tụi tôi từ chối đồ ăn Mỹ . Về đến nhà nhiều khi mệt quá, ăn không vô . Ðoan hỏi . Em muốn ăn gì để anh đi mua ? Hay ra tiệm Tàu gần nhà ăn tỉm sấm. Lắc đầu . Nằm cái đã, nằm ngay trên thảm cho cái lưng thẳng lại sau gần cả chục tiếng ngồi trên tàu bay, cho đến khi cảm thấy cần phải ăn một cái gì đó vì ..hình như mình chưa ăn gì, thì lục cơm, làm vài cái trứng, hoặc lại …mì gói làm lẽ sống . Ôi, nuôi … chó còn khó hơn …nuôi tôi .

Ðang từ cái vụ “ơn, nghĩa” sao bỗng dưng lại có mục ăn uống ở đây ? Chả là vì đã 3 giờ chiều rồi mà tôi chưa có chút gì vào bụng, Thị Hà lại kêu lên hỏi … “Chị ăn gì chưa …” Thế là tự nhiên cảm thấy đói bụng. Bèn đi rửa nồi, vo gạo thổi cơm, mà phải chờ cơm chín đã chứ . Thì chờ . Lục tủ lạnh, còn miếng chả ..của ai mua không biết, lăn lóc trong đó, lấy ra nhai đỡ buồn trong lúc chờ cơm . Ðói rồi, tạm quên cái vụ ơn iếc qua một bên . Ăn cái đã . Phải ăn mới sống được . Có sống được mới có ngày trả ơn chứ . Thật . Tưởng chỉ có cái …lưỡi không xương, nhiều điều lắt léo, ai có ngờ ngón tay cũng có thể gõ ra cái sự lẽo lự . Cho con ăn cái đã . Ðừng ai kêu réo lúc này . Trời đánh còn tránh bữa ăn cơ mà . Phỏng ?

Khánh Ly 7 tháng 9- 93 .
(trích báo Văn Nghệ Tự Do . tháng 10-1993)
Cũng Vừa Đủ Vui
Thế này nhé!... Chúa tạo ra ông Adam và Chúa ngừng ngang tại đó, tất cả mọi chuyện trên thế gian này sẽ đơn giản hơn nhiều vì ông chỉ có một mình, lấy đâu ra những hậu duệ... khờ dại giống ông bây giờ. Nhưng Chúa lại cho ông ăn thử trái đắng trước khi nếm trái cấm... Chúa trao cho ông một ngưòi đàn bà được tạo dựng bằng chính một phần từ con người ông, bà Eva... Người gần ta nhất là người dễ đâm ta nhất!

Nhưng Chúa cũng rất nhân từ. Sau khi đuổi tổ tiên chúng ta ra khỏi vườn địa đàng, Ngài thưởng ban cho loài người một năm có 4 mùa để sống vui hạnh phúc. Rồi chẳng hiểu từ bao giờ, chúng ta chia ra mùa Xuân để yêu nhau, mùa Ðông để nhớ nhau, mùa Thu để các văn, thi và nhạc sĩ viết cho đời những khúc tình ca. Còn mùa Hạ có lẽ vì nóng quá, con người dễ trở thành... bất thường, dễ cãi nhau, chửi nhau, giận nhau, bỏ nhau, sau khi đã đẻ một tăng.

Tôi thì kệ. Mùa nào cũng thế. Yêu Nhớ Giận Hờn đã đủ rồi nên bốn mùa cứ việc thản nhiên đi qua cùng với những chuyện của thế nhân. Tôi chỉ chờ mỗi mua... cà pháo. Cái con mẹ này lẩm cẩm, cà pháo ở đây thiếu giống gì mà phải chờ với đợi, mà nào có quý báu gì ba cái quả cà tí hin trong khi thịt thà cây trái ê hề, tôm cua nghêu sò ốc hến bò lổm ngổm. Ở đây, mùa nào thức ấy, chỉ thiếu con kinh... Nhiêu Lộc lềnh bềnh rác rến và rất nhiều... áo mưa - thì quả là chúng ta vẫn ở quê nhà.

Mặc, ai muốn nói gì thì nói, tôi cứ gào lên qua điện thoại... Cha ơi, bà con đòi ăn quá, Cha thử làm một vòng thăm hỏi xem cà đã hái được chưa... Cha Nam Hải bao giờ cũng cười... Chưa có đâu nhưng để hỏi, nếu có, sẽ gửi cho Mai Ðoan này... Này Ðoan ơi! Kỳ này cà ngon lắm, Nam Hải gửi rồi, thứ tư sẽ đến, nhớ ở nhà mà nhận... Ôi ! Của cho không bằng cách cho. Cứ tưởng tượng một Linh Mục Chánh Xứ - Xứ Mỹ có đầy - lui hui gom cà đóng thùng, khiêng tới UPS, những trái cà pháo nhỏ tí hin mà ngày xưa, chỉ có nhà nghèo mới ăn, chỉ có dân rau muống nghèo mới chuộng, nay lại " ngự" máy bay bay một cái vèo tới tận Cali. Nằm mơ chăng nếu những người ở Việt Nam hay biết.

Còn một mùa nữa, một mùa không ai mong đợi mà nó cứ tự đến bất cứ lúc nào, như một người khách không mời, cứ tới. Ðó là mùa... tai họa hay... tai nạn cũng vậy. Ðã bảo là người Trung Hoa có câu nói rất hay: " Khi xui uống miếng nước cũng sặc" . Ai lại không phải uống nước. Uống nhiều sặc nhiều, ít sặc ít. Dĩ nhiên tôi cũng không tránh khỏi dù rất ít... uống nước.

Tai nạn lúc tự mình khi thì người khác mang đến âu yếm tặng cho. Tai họa cũng thế. Cái miệng ăn mắm ăn muối với cái lưỡi không xương, thường là đầu mối của mọi tai họa. Ta thường gọi là " vạ mồm" . Cái này hình như anh nào cũng bị. Nhiều oan trái nhưng vì lớn cả rồi, đối chọi là chuyện không nên không hay, nên nạn nhân đành ngậm bồ hòn mà chịu. Tôi vốn là người vẫn kính trên nhường dưới, luôn luôn kéo cái díp-pô ở miệng lại, không la cà đàn đúm, tối ngày rúc trong nhà, một nơi xa xôi hẻo lánh, không thấy không nghe không nói, ấy vậy mà nó cứ sừng sững mọc lên.

Sống đến tuổi này, từ Bắc vô Nam, từ Nam đi lỡ một chút tới... Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ kể cũng không dễ gì, nhưng nhịn nhục vốn là tính Trời cho khó có ai theo kịp nên tôi cứ vuốt ngực mà nuốt vào tất cả, chỉ biết cầu nguyện mong cho qua đi tất cả. Tôi rất biết ơn, rất cần những viên thuốc ngủ, bởi nó đã từng theo tôi mấy chục năm nay, giúp tôi quên đi ưu phiền, cho tôi những giấc ngủ tương đối bình yên.

Sáng nay tôi thức dậy và ngạc nhiên khi thấy Ðoan ở nhà. Chưa đi thì đúng hơn. Anh ngồi, mặt nghiêm và buồn trước một đống bill. Tôi làm lơ như không biết, nhìn qua bếp, một thúng cà to như cái gò Ðống Ða... Giời ơi! Cà anh ơi! Cha gửi cà nhiều quá, đã quá... Ừ! UPS mới giao, anh khiêng đâu nổi, nó phải khiêng vào đấy dùm. Cà ngon quá. Liếc nhìn, thì quả là ngon thật. Tôi đứng trước thùng cà lòng vừa cảm động vừa vui vừa hãi hùng vì không biết phải " xử lý" cả trăm pounds cà này cách nào trong vòng hai ngày với... một cánh tay còn nhúc nhích được.

Một quả cà bằng ba thang thuốc... Quả cà bé tí, tròn vo, trông dễ thương thế mà lại bảo là độc, mà đã độc, sao lại cứ ăn. Tôi cũng chưa thấy ai chết vì ăn cà pháo, chỉ biết là ở xứ này, thịt thà cố lắm vào, béo quá, không chết vì bệnh cũng chết vì... rửng mỡ. Các cụ ta ngày xưa cứ quanh năm ngày tháng bốn mùa là cà. Vại lớn vại nhỏ. Mở mắt ra là cơm với cà cho tới lúc lên giường cũng cà với cơm. Ấy thế mà giờ này các cụ còn đi đứng chạy phom phom. Ngược lại, nhiều người mới tí tuổi đầu đã lặc lè, đi không nổi, thế thì tại cái gì? Ôi đàn bà, cãi với đàn bà là một điều dại dột, nếu không muốn nói rằng ngu. Người cãi ngu chứ đàn bà không ngu, không phải chỉ qua ngọn cỏ. Ai đó, tôi không nhớ bảo rằng con người là cái " vốn" thì phải nói rõ thêm đàn bà là cái " vốn" của đàn ông. Cứ để dành đấy sẽ có lúc phải xài đến, mà xài cho việc lớn chứ không hèn. Nếu không vậy, chẳng lẽ Chúa sinh ra đàn bà chi để làm khổ, hành hạ, tra tấn cuộc đời? Nói cái vụ " xử tử" thùng cà pháo này của tôi, cũng dư thừa nói lên sự kiên nhẫn ngàn đời không thể có được ở các ông.

Ông Tô Văn Lai và Anh Hoa chở dùm tôi đi chữa bệnh. Ông Lai dặn: " Này khỏi rồi nhớ đừng ăn cà pháo với sầu riêng đấy nhé, mít nữa, độc lắm em ạ. Ở xứ này ăn uống phải cẩn thận, đã cái miệng thì hại cái thân cứ rau cá mà ăn. Tốt lắm." Ðoan im lặng nhìn tôi. Khôn. Anh dạy vợ không được để người khác dạy. Nhưng không nói thì thôi, nói ra, tôi thấy cách tốt nhất là... không ăn gì cả. Bởi vì, cái gì cũng độc hại, đến... lời nói còn độc hơn rắn độc thì cái gì lành bây giờ? Tuy vậy, tôi chỉ nghĩ chứ không nói ra, vì các điều ông Lai nói đều đúng. Các cụ xưa cũng bảo " có kiêng có lành" .

Xương mới chụp hình được, còn gân và bắp thịt thì chịu. Ðể đau cả ba tuần rồi, chẳng có cách nào khỏi ngay được. Cách đây chừng hai ba năm gì đó, tôi cũng bị đau như vậy, tôi không chữa chạy gì cả, cứ cắn răng cuối tuần kéo vali đi. Gặp bà Hoàng Oanh tôi bảo chắc tôi bị... ung thư. Nay thì biết đúng là " khi xui uống miếng nước cũng sặc" . Cái anh Tàu ngẫm lại thế mà vui. Gặp Trường Thanh chưa kịp nói gì thì Trường Thanh đã cười sằng sặc " Ôi năm nay chị xui lắm..." Thôi, thôi lậy mẹ! Năm nào cũng xui, cả đời xui, chắc tôi lúc vào hòm nằm cũng chưa chắc đã gọi là hên. " Chị đừng có lo, năm tới hết rồi." Tôi chỉ cười, không biết hên cái gì?

Là một người thích hát, mê hát, lúc nào tôi cũng muốn được vui, gần với nỗi vui, làm cho mọi người vui. Ngày xưa, một người bạn tôi thường nói... làm cho chúng ăn đi, hầu hạ cho cố vào, rồi chúng chửi cho. Cái này đúng. Nhưng tôi thây kệ đời. Lúc nào còn khả năng mang lại niềm vui cho kẻ khác, có nghĩa là cuộc đời tôi còn có ý nghĩa, còn đáng để mình bám víu vào mà sống, nhất là đối với một ca sĩ. Tôi cho rằng, những khổ ải của trần thế, là cái vốn liếng quý báu cho văn, thi, nhạc và ca sĩ, hình như cả họa sĩ nữa. Ngày xưa, lúc tôi còn nhỏ lắm, ông Nguyễn Ðình Toàn - trong những bài học vỡ lòng - bảo: " Ðứa nào không bị đời, bị tình quật ngã bầm dập tả tơi, đứa đó không thể hát hay được." Bây giờ, sau mấy chục năm rồi, những lúc tập hát, tôi thường muốn hỏi lại ông rằng những chịu đựng của tôi mấy chục năm qua, liệu tôi có thể được coi là một ca sĩ, dưới cái nhìn của ông không? Bởi có những nỗi niềm rất ai oán mà không ai có thể chia xẻ được, kể cả ông.

Riết rồi, vui hay buồn, tôi coi như nhau. Oán hay ưng tôi cũng chẳng màng để ý. Và bây giờ thì tôi như cục đá, hễ ai muốn đá cứ đá, người đau không phải là tôi. Ai mà nghĩ rằng nỗi buồn đôi khi trở thành quen thuộc đến không còn biết thế nào là buồn. Tôi bỗng nhiên trở nên ngu hẳn đi giữa những biến thiên của cuộc sống. He...he... Tôi ngu triền miên, thông minh đột xuất và, tôi lợi dụng lúc mình thông minh đó để hát, hóa ra lại dễ sống!

Tôi đang " xử lý" thùng cà pháo của Linh Mục Nam Hải gửi cho bằng tất cả sự thông minh và can đảm khi bắt tay vào việc. Cánh tay phải treo lơ lửng, tôi ngồi bệt dưới đất, chân trái duỗi chân phải co lên làm điểm tựa cho cánh tay phải, ráng quên đau với ý nghĩ thùng cà này sẽ chia cho những ai. Ðoan nhìn tôi bảo: " Anh phục em thật. Em có vẻ say mê hơn anh tưởng nhiều" . Tôi trả lời: “Ấy! Em chỉ cực chút xíu thôi, cứ nghĩ đến lúc bạn mình ăn, xuýt xoa từng miếng là em vui rồi. Vả lại, công lao Cha gửi về cho mình còn dặn - Mai nhớ chia cho các bạn nhé – Dẫu thế này chứ đau nữa em cũng phải làm.

Thế nên năm nào Cha cũng gửi cà pháo cho chúng tôi. Ðòi trả tiền UPS, Cha không chịu, còn phone trước dặn ở nhà cho UPS đến giao cà. Có lần, mới năm ngoái đây thôi chớ có xa gì, đã qua mua cà rồi, nói Cha cứ nghĩ đã bắt đầu lạnh, thế mà không hiểu vì sao vẫn còn cà. Cha Nam Hải bảo: " Này, hên cho Mai đấy nhé! Chứ bình thường người ta đã nhổ hết để trồng thứ khác" . Kỳ đó cũng khoảng 50 pounds và tôi phone cám ơn: " Cha ơi. Cha cho mọi người cái hên của cha đó. Con đâu có ăn bao nhiêu" . Cha cười: "Ừ. Thôi làm cho mọi người vui, mình cũng vui Mai ạ..." .

Mùa hè hình như đã qua. Khế đã cho hoa, cho trái. Hồng đã bắt đầu ửng chín. Ổi trĩu cành. Bơ có thể hái được rồi và, những đóa cúc nhỏ xíu, nở bừng một màu tím dịu dàng trước sân nhà. Chúng tôi chuẩn bị cho chuyến đi Úc, con đường dài hun hút 14 tiếng đồng hồ bay, chỉ thấy trời mây và đại dương sâu thẳm mênh mông. Ở đó, tôi có cảm tưởng như chỉ cần với tay là chạm tới Quê Nhà, mùi thơm của hoa bưởi, hoa ngâu dường như thoang thoảng trong những cơn gió còn mang chút lạnh của ngày cuối Ðông. Ôi! Mùa của thương nhớ. Thì ra, nói gì thì nói, tôi vẫn là kẻ tha phương hoài vọng về cố quận, nơi ngày xưa đã cho tôi những tấm lòng hiền lành như trái bầu, trái bí, trái cà... Phải, cái gì đã mất thường làm ta xót xa...
Một đôi chân một trái tim
Đầu tuần, bạn bè kêu đến hỏi thăm. Sao, đi show về có khoẻ không?… Cô có khoẻ không cô, nghe nói vui lắm phải không cô, nghe bảo cô bán băng hết băng phải không cô?… Đại để là những câu thăm hỏi thân tình nhưng ai cũng biết – dĩ nhiên trong giới với nhau. Tất cả vừa vượt qua đoạn đường chiến binh, thở ra khói, chân đi hai hàng, tay kéo valise rã rời, khiêng những thùng băng thiếu điều hộc máu mồm, máu mũi, hỏi làm sao khoẻ cho nổi. Trẻ tuổi còn ngắc ngơ huống chi tôi. Ngáp như cá mắc cạn. Bởi vậy, những lời thăm hỏi là những lời an ủi, sớt chia cần thiết. Vui đến không còn biết rằng ngoài kia trời đêm đã rất lạnh. Buồn cho những ai một đời chờ đợi những lời thăm hỏi. Điều giản dị, nhỏ nhoi đủ cho lòng ấm lại.
Đói lắm, sau những tuần quay video, sau những dãy show, tôi thèm ăn như một người sắp chết đói. Cả bọn ngồi với nhau cười nói râm ran, đồ ăn thức uống phải nói là không thiếu gì nhưng được tán gẫu với bạn bè cộng với sự thành công chung của một chương trình do sự thương mến, biết điều, nhường nhịn giữa chúng tôi. Do đó, tôi chẳng còn lòng dạ nào để thưởng thức. Nhai cứ như nhai giấy miễn sao cho đầy cái bao tử trống rỗng cả tuần của tôi. Ăn uống xong thì đã 3 giờ sáng, về phòng tắm gội, sắp xếp quần áo các thứ rồi chong mắt chờ sáng để rồi cả bọn lại kéo nhau ra phi trường, mỗi đứa đi một ngã. Đi nữa, như ông T.C.S. đã viết …Người ta sinh ra có đôi chân để đi….

Những tuần có Lễ lớn, bà con được nghỉ bắc cầu ngày thứ hai, chúng tôi thường có 3,4 show qua 3,4 tiểu bang.Valise băng nhạc, đồ đạc linh tinh như máy sấy tóc, bàn ủi cứ phóng sinh cho máy bay nó chở. Quần áo cùng các đồ phụ tùng để leo lên sân khấu thì anh nào cũng kè kè bên mình bởi những chuyến bay phải đổi tàu, hành lý dễ thất lạc. Đàn ông dễ hơn là có thể xin lỗi bà con – có lý do chính đáng – để mặc quần jean, áo thung lên hát hoặc có thể mượn bất cứ ai nhưng đàn bà con gái chúng tôi thì …thua. Tìm đâu ra một người có cùng size với mình từ giầy đến áo, đến quần, lại còn những của nợ để bó, để cột. Chẳng lẽ lại bụi đời quần jean, áo thung mang bốt lên hát….Người Di Tản Buồn hay Thưa Mẹ Con Là Người Việt Nam. Người Việt Nam đâu có kỳ như vậy.

Vì vậy, các bố già, bố trẻ khoẻ re như con bò kéo xe, trong lúc chúng tôi thập phần cực khổ, tay xách, tay mang. Tôi được cái may mắn là nhiều người thương – vì cái mồm lúc nào cũng toe toét cười – nên có lúc được Fanny Dũng phụ cho cái túi, Quốc Việt kéo giúp cái valise băng, Hoàng Tâm nhắc chừng cái bóp còn mắc trên ghế, Đức Phương chia cho nửa ly cà phê nóng hổi giữa đêm lạnh lẽo. Có lần một mình Tommy Ngô tự động xách dùm valise cho tất cả mọi người qua mấy từng cầu thang – ở Âu Châu phòng make up của ca sĩ thường ở dưới hầm, lại không có máy sưởi nên lắm hôm chúng tôi lạnh cóng người, tưởng như đang ngồi trong nhà xác – Tuấn Anh thường góp ý với tôi, lúc thì mầu mắt này không đẹp hay môi hơi khô. Tuấn Anh thoa lên cho tôi lớp son bóng. Hương Lan sửa lại mắt tôi cho lớn hơn. Mai Linh cài giúp cho bác mấy cái khuy áo. Thanh Tuyền sửa lại cái vòng đeo cổ cho ngay ngắn. Tôi vốn rất dở trong công việc làm đẹp cho mình, phần tôi nghĩ là mình vốn …xấu sẵn, có tô có trét cách nào cũng không thể đẹp. Hai bàn tay 10 ngón của tôi, chỉ có một cái hoa tay.

Có những buổi hát ngoài trời giữa mùa đông tháng giá, tôi trân mình thách đố với thời tiết khắc nghiệt, phong phanh một chiếc áo dài – tôi rất thích mặc áo dài, đặc biệt áo lụa Việt Nam – Mọi người sẽ không thích nếu tôi thay đổi…cho nên ở tuổi này, tôi vẫn để tóc thề như một cô học trò …già – rồi còn đi xin tiền cứu lụt, gây quỹ cho Nhà Thờ, cho Chùa. Nhà Thờ, Nhà Chùa xây dựng chưa xong, tiền quyên góp chưa về đến tay bà con mình giữa làn nước mênh mông còn biết đâu là nhà, tôi lăn đùng ra ốm. Ngày xưa tôi chạy xuống Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang, bây giờ tôi cầu cứu ông Bác sĩ Nguyễn văn Thế gốc Thuỷ Quân Lục Chiến mà hiền như Bụt hoặc ông Bác sĩ chuyên ăn cơm nhà vác chuyện xã hội Nguyễn Ngọc Kỳ. Đến riết tôi phải xấu hổ vì gần như ngày nào cũng xin được chích thứ thuốc mạnh nhất, mà cứ thế liên tiếp cả mấy tháng trời. Xấu hổ vì không ông nào chịu lấy tiền. Tôi phải gởi biếu băng nhạc và ..cà pháo cho nhẹ bới nợ. Gì chứ nợ ân tình khó trả lắm.

Ở bài trước tôi không kể cái màn cảm cúm của tôi bởi vì tôi cảm cúm triền miên, hết đợt này đến đợt khác, đến nỗi Bác sĩ thấy mặt tôi lấp ló là biết ngay – tôi cũng chỉ xuống Bolsa để xin chích thuốc, có nghĩa là nếu thấy tôi là thì xin hiểu cho rằng tôi đang bịnh, chứ không phải đi chơi ăn uống gì – mà ngộ cái là dù đang cảm cúm, khi leo lên sân khấu, tôi vẫn cứ hát được, không ai biết là tôi vừa hát vừa cầu nguyện, cũng như trước khi ra sân khấu, bao giờ tôi cũng đọc kinh, trước khi rời nhà đến phi trường, Đoan cũng nhắc tôi đọc kinh trước đài Đức Mẹ. Ai chỉ thuốc gì tôi cũng uống, trụ sinh dường như không thèm để ý đến tôi nữa. Cái gì đã giúp tôi còn có được ngày hôm nay nếu không phải Chúa Mẹ đã che chở giữ gìn tôi trong lòng những người thương mến tôi. Sức người không làm nổi nhất là người như tôi, trong máu không hề có một ly thuốc bổ, chỉ có trụ sinh, thuốc diet và thuốc ngủ.

Tôi không chấm gót cô Thái Thanh. Không có kỹ thuật như Lệ Thu, Khánh Hà. Không biết diễn tả dịu dàng say đắm như Ý Lan. Không có một thân hình, một đôi chân của Linda Trang Đài, không có làn hơi phong phú ngọt ngào của Hương Lan. Không có tuổi trẻ và nhan sắc của Như Quỳnh. Thế thì tôi có cái gì? Tôi chỉ có một nỗi niềm mà mỗi khi cất tiếng, tôi tìm được sự chia sẻ trong những ánh mắt. Tôi chỉ có cảm giác mình còn sống khi được hát dù cho mấy ngàn người hay cho một người. Tôi lại biết rằng rồi đây có lúc tôi sẽ không hát được nữa. Tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ này và tự nhiên tôi muốn mình tan biến đi ngay bây giờ…. Em cây non mới đến, tôi đứng đó trầm ngâm…Cây non là em đó, còn tôi như cây già … Tuổi thơ xanh mãi với trái tim vui. Rừng ơi! xanh hoài mái tóc dùm tôi… (TCS). Tuổi thơ của tôi không có, dẫu có cũng đã qua. Rừng thì bao giờ cũng mênh mông thăm thẳm và thản nhiên trước mọi biến cố của Đất Trời. Rừng không bao giờ lên tiếng.

Tháng 5–1975 đặt chân đến trại tạm cư Forl Chaffee, giữa những đau buồn và những mất mát quá lớn, tôi cảm nhận một sự hãi hùng mới. Không còn cơ hội cho mình hát. Tôi không thể so sánh được nỗi buồn rời xa xứ sở và không được hát. Cả hai đều khiến tôi đau lòng đến muốn chết. Lúc đó tôi còn trẻ lắm nhưng vì gần 10 năm, từ sân trường Đại Học này đến sân trường Trung Học khác, gắn bó với Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trên 4 vùng Chiến Thuật, những điều đó làm lòng tôi đau, chứ thật ra cá nhân tôi chưa bao giờ nhận một ân huệ nào ở bất kỳ chế độ nào. Tôi vốn không thích những người có thế lực, địa vị hay giầu sang, nổi tiếng. Có gì xin xỏ, nhờ cậy, dựa hơi chăng? Tôi không tiêu thụ nổi những ngờ vực đó. Tôi đến với giới trẻ thời đó vì tinh thần tự nguyện, đến với những người lính chiến Việt Nam Cộng Hoà với một tấm lòng vì Lính, cho Lính chứ không cho Tướng. Ở đảo Wake, ở Forl Chaffee tôi hát mỗi đêm cho mọi người với tiếng đàn ghita của Bác sĩ Ngô Thanh Trung với nỗi buồn đau chung có xen lẫn nỗi sợ hãi không còn dịp nào để hát nữa… không thể gặp lại nhau nữa. Những ngày ở đảo, ở trại tạm cư mới thần tiên, hạnh phúc làm sao. Mọi người rất thương nhau. Nghĩ đến những ngày cũ, lòng tôi ấm lại như khi nghe một câu thăm hỏi sau một chuyến đi dẫu không dài nhưng vất vả, vẫn tràn ngập trong lòng tôi những niềm vui.

Nằm dài trên cái giường nhỏ của mình. Cơn mệt mỏi ập đến. Một nửa vai và cánh tay phải của tôi vẫn tiếp tục hành hạ bất kể ngày đêm. Phải nghỉ ngơi… tôi không có thì giờ. Tôi không muốn, cứ để vậy, lâu ngày chầy tháng tự nhiên nó sẽ hết. Tôi nghĩ thế bởi mỗi ngày, dẫu không vui, vẫn là những khoảng thời gian còn lại không nhiều, đủ để cho tôi đi đến tận cùng của hạnh phúc lẻ loi. Người ta có đôi chân để đi… Tôi chỉ kể cho các con tôi những chuyện vui. Bao giờ cũng vui . Tôi sung sướng khi chúng lắng nghe Mẹ kể, rồi gật gù cười mãn nguyện. Mới hôm nào…Mẹ bồng,Mẹ bồng… Mới hôm nào tôi còn ngắm nhìn những bước đi chập chững đầu tiên. Phải, mới hôm nào đây thôi, chứ có lâu gì. Vậy mà cái đứa …Mẹ bồng, Mẹ bồng nay đã rất tỉnh táo đưa Mẹ ra phi trường lúc 5 giờ sáng, đón Mẹ về dẫu đã nửa đêm. Cái đứa mới ngày nào còn chập chững, đã đi làm parttime ngoài giờ học, còn biết mua cho Mẹ đôi giầy, bộ quần áo tập thể dục.

Con trẻ dẫu có lớn mà không có khôn. Chúng vô tội. Những muộn phiền đời sống là của mình, do mình. Những cay đắng, gian nan vất vả là bổn phận của riêng Mẹ. Phải giấu kín, phải nuốt sâu trong lòng, phải cười thật tươi ngay cả khi biết rằng đã đến lúc không thể không chết. Tôi muốn các con tôi mãi trong vòng tay dù vòng tay đã đến lúc mệt mỏi và tôi đau đớn nhận ra rằng các con tôi đã lớn và chúng cũng có một đôi chân để đi, những bước đi vững vàng tới những nơi chúng muốn, cõi riêng của chúng. Dẫu cho có gắn bó với ánh đèn với ước muốn được hát lúc nào cũng rừng rực cháy, thúc đôi chân tôi đi tới, đi mãi. Nhưng đôi chân ấy cũng có lúc cảm thấy cần phải tìm đến một chỗ nào đó, để ngồi xuống nghỉ ngơi. Sẽ có một lúc tôi sẽ ngồi xuống hoặc nằm xuống và tôi yên tâm biết bao khi biết chắc rằng các con tôi có một đời sống tử tế, tốt lành.

Kể ra thì bây giờ hay bất cứ lúc nào, tôi cũng có thể yên tâm được rồi, thanh thản bước vào cái cõi đi về của mỗi con người. Chưa, thì đợi vậy và trong khi chờ đợi, lòng tôi vẫn rộn ràng khi nghe tiếng đàn trổi lên, ánh đèn rực rỡ bừng sáng. Tôi lại như một con thiêu thân lao vào ánh sáng, không phải để huỷ diệt mà để van xin… Áo xưa dù nhầu, cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau… Điều chúng ta phải nhớ là ngoài một đôi chân để đi, chúng ta còn một trái tim.

Trịnh Công Sơn Và Những Nốt lặng Của Tình Yêu
Tâm Sự

Tôi là gái Bắc, lớn lên ở Sài Gòn, nhưng lạ lùng làm sao, tôi không nhớ Hà Nội bao nhiêu. Không yêu Sài Gòn nhiều lắm. Mà chỉ xót xa đến Huế, Huế nghèo. Thành phố chỉ có vài con đường chính. Huế nóng cháy da, mềm thịt. Huế lạnh buốt, lạnh từ lòng lạnh ra. Dường như Huế chỉ thực sự huyền ảo, đẹp, nên thơ bời những nghệ sĩ khi viết về quê hương của mình. Có lẽ đó là điều dĩ nhiên của mọi người, mọi miền khi viết về nơi mình đã được sinh ra. Âu cũng không phải là điều làm cho ta ngạc nhiên.

Nhưng không phải vì những điều người Huế viết về Huế đã làm tôi yêu Huế. Vì nếu như vậy thì tôi phải yêu Hà Nội nhiều hơn mới có lý. Phải yêu Sài Gòn nhiều hơn, phải yêu Đà Lạt hơn mới phải. Vậy mà tôi yêu, thỉnh thoảng gặp lại một vài người bạn, tôi năn nỉ "mi" "noái" cho tau nghe chút cho đỡ "dớ". Con gái Huế nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép nhẹ nhàng. Có một cái gì thật mong manh, như tơ, như sương, khói, như một điều không có thật trong con người của các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng họ không phải là sự hiện hữu. Một chút hương khói hư ảo chập chờn. Chỉ một tiếng động khẽ dù là tiếng rơi của một chiếc lá, cũng đủ làm tan biến đi tất cả. Mười ba năm qua, chỉ xin nói cho nghe vài câu cho đỡ nhớ "nhà". Như thế là yêu đấy, nhiều mới khổ chứ.

Dù tôi chỉ biết Huế sau Tết Mậu Thân và không quá 10 lần ghé Huế. Nhưng tôi yêu Huế bởi từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu. Tôi không muốn nhắc đến, những điều đã được viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi chỉ muốn viết về "Huế của riêng tôi", và như vậy cũng có nnghĩa là mở ra cánh cửa của kỷ niệm, của những hân hoan đau đớn, những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh, đeo đuổi tôi trong suốt 13 năm qua . Mười ba năm trước đã không thành, không nói. Thì bây giờ lẽ ra càng không nên nói. Bởi vì dù có thêm 100 năm nữa "Hai mái đầu xanh giờ đã bạc" cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng nữa, thì cũng là kiếp sau. Nhưng "Tình tưởng đã yên mà tâm còn động vọng". Thì ra 13 năm với tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa thoát ra được. Không thoát ra được. Không muốn thoát ra. Còn cố gắng bao che, tự lừa dối mình. Chỉ là một cơn mộng. Đêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy tóc vẫn xanh với lời dặn xưa "Qua đèo Hải Vân, nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em". Mộng đã tàn. Tôi đã tỉnh với đau đớn. Thì thầm một mình "khóc đi chứ". Còn khóc được là biết mình còn sống, còn khóc được là biết Huế còn đó trong trái tim, trong tận cùng đáy sâu thống khổ, khốn cùng của một kiếp người mà hạnh phúc cùng đồng nghĩa với bất hạnh.Tôi vốn là một đước trẻ mồ côi cha. Cha tôi chết trong trại Đầm Đùn sau 4 năm giam hãm. Học hành dở dang, vài năm trường tây, vài năm trường ta. Trường học chẳng dạy tôi điều gì. Gia đình chẳng dạy tôi điều gì. Nên tôi tự dạy tôi ra đời năm 16 tuổi. Đi hát nhưng không bao giờ nghĩ mình lại trở thành ca sĩ. Hát vì thích hát. Điều này tôi hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi ông bố có nhiều nghệ sĩ tính nhưng lại đi theo kháng chiến và chết đau thương trong lao tù. Không có tình thương của cha, không hợp tính với mẹ. Ngoài ý thích được hát, tôi không biết mình phải làm gì. Đời sẽ cho tôi những gì và tôi sẽ có được những gì. Tôi quờ quạng sống lang thang giữa đám bạn bè tốt bụng, nay đứa này cho bịch gạo, mai đứa kia cho nửa chai nước mắm. Nghèo mà vui tôi không buồn vì nỗi bị gia đình hắt hủi, từ bỏ. Tôi như một thằng con trai, giữa đám bạn trai. Tuy không có cái cảnh vườn đào kết nghĩa nhưng cho đến giờ đây, gần 30 năm qua, có đứa đã ra đi mãi mãi, có đứa nửa điên nửa dại, có đứa nhà cao cửa rộng, vợ con đề huề. Thỉnh thoảng gặp lại, tưởng như 30 năm chỉ là một ngày. Cũng tưởng đời sẽ lêu bêu mãi cho đến ngày cuối, nhưng nếu định mệnh là điều có thật, thì điều đó đã đến với tôi một đêm mưa tại Đà Lạt. Dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng tròn, gọng đồi mồi, cặp mắt bồ câu, vầng trán rộng, sống mũi thẳng, nụ cười đẹp, tươi với chiếc răng khểnh, người con trai đó nói với tôi bằng giọng Huế. Dân Đà Lạt, đa số nói tiếng Huế tuy hơi lai, nhưng Sơn là "Huế chay".

Sơn với hai bàn tay gày guộc, những ngón tay dài tài hoa, chắp cho tôi đôi cánh, xỏ vào chân tôi đôi hia bảy dặm. Cô bé lọ lem lột xác. Lột xác để từ một đoạn trường này bước sang một đoạn trường khác.Từ Sơn, tôi đã thành danh, nhưng đó cũng chưa hẳn là điều tôi mong muốn. Tôi có cảm tưởng như vậy. Có phải đời sống là như thế hay sao? Thế là đủ hay sao? Nếu thiếu thì thiếu cái gì và tại sao thiếu? Đời sống tầm thường thế thôi sao? Một đứa trẻ mồ côi, bị gia đình hắt hủi - luôn luôn thèm một mái ấm gia đình, một lời nói ngọt ngào của mẹ, thèm từ một cái áo, một đôi giày. Mà phải là gia đình nghèo khó gì cho cam. Chỉ vì ... đúng là tôi sinh ra dưới một ngôi sao không mấy đẹp. Lúc sống lang thang như một người lãng tử, tôi thường tự hỏi mình nhu cầu gì cho đời sống. Sống trong đời sống mình phải có những gì? Tình, tiền, danh vọng? cho đến lúc nghĩ rằng mình đã có đủ những điều mơ ước, tôi vẫn luôn luôn âm thầm.

Hình như không phải như mình nghĩ. Cuộc sống, đời sống, con người sống trong đời chỉ tầm thường thế sao?Một hôm tôi hỏi Sơn: Sống trong đời sống mình cần phải có gì? làm gì? Sơn cười ngón tay dài khẽ đẩy cái gọng kính đang trễ xuống. Câu trả lời ngắn gọn: Cần có một tấm lòng. Tôi nhìn Sơn: "Một tấm lòng?" ở giữa thế kỷ này, giữa thời gạo châu củi quế, giữa thời giá trị của một con người được đánh giá bởi áo quần, nhà cửa, vòng vàng, hột xoàn...Một tấm lòng để làm gì? Sơn nhìn tôi, ngón tay lại đẩy cao gọng kính. "Sống trong đời, ta luôn luôn phải sống với một tấm lòng, phải có một tấm lòng, dù không để làm gì cả, dù chỉ để... gió cuốn đi.". Tôi nhìn sững Sơn không nhớ bao lâu, nhưng chắc là lâu lắm. Cứ ngồi nhìn anh, nhìn vầng trán mênh mông, cúi xuống thật thấp, ngón tay gầy trên những sợi dây đàn. Chiều xuống lúc nào không hay, gió từ sông Hương thổi mạnh. Hình như trời muốn chuyển mưa. Hình như lòng tôi cũng đang chuyển động dữ dội. Một ánh sáng kỳ lạ nào đó vừa chiếu rọi vào cõi tôi u tối, ngu muội. Hình ảnh con nhỏ bụi đời, lúc hàn vi chợt sừng sững trước mắt tôi. Cái ngõ tối lầy lội đường Phan Thanh Giản, cái nhà sàn cầu sắt Đa Kao. Những buổi chiều nằm trên đồi sân Cù Đà Lạt, khóc một mình. Tất cả chợt sống lại hay đúng hơn, ở một lúc nào đó tôi đã chết rồi. Và chiều nay bên dòng sông Hương êm đềm thơ mộng - vầng trán mênh mộng, giọng nói dịu dàng, ánh mắt thăm thẳm, bao dung, Sơn kéo tôi khỏi cái chết ngu xuẩn. Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đi đời suối, đời người cũng dễ sống và hãy thả trôi đi những niềm đau.Hai mươi năm qua, tôi sống như lời Sơn nói, như điều Sơn muốn. Còn có ai thấy được hay không, điều đó không cần thiết. Chỉ cần Sơn không thất vọng - điều đó đủ rồi.Những ngày tháng ở Huế, gần Sơn và gia đình. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của đời tôi. Sáng Đông Ba, chiều Vỹ Dạ, tối họp nhau ở Cercle hoặc nhà anh chị Lễ, đàn hát ngâm thơ. Sơn yêu thơ Nguyễn Bính, bắt tôi ngâm đi ngâm lại bốn câu:

"Mà sao giấc ngủ không dài. Mà đêm xuống ngắn mà trời cứ mưa. ở đây tôi sống như thừa. Có đêm men rượu tạm vừa lòng nhau."

Có bao giờ Sơn hiểu rằng, dù rượu có hết mà sầu vẫn không vơi. Sơn ơi, Huế ơi, "Nỗi sầu như tóc bạc, cứ cắt lại dài ra"...
Lục bát Yên
Trời hôm nay không nắng. Trời hôm nay cũng không mưa. Trời hôm nay, chẳng ra làm sao cả. Tôi chợt cảm thấy một chút gì bâng khuâng, xao xuyến. Không hẳn nhớ. Không hẳn thương. Không hẳn vui. Không rõ buồn. Cái cảm giác chợt đến lạ lùng lắm. Không biết phải nói ra thế nào. Không nói ra được. Nhưng rõ ràng, tôi cảm thấy chênh vênh hụt hẫng. Có hoang mang. Có một chút quạnh quẽ... Tôi đang ngồi một mình dưới hiên sau, trên tay là tập thơ của Ngô Tịnh Yên.

Tôi mường tượng dáng dấp người con gái tôi đã gặp qua một lần, rất vội. Yên, người mong manh, làn da không son phấn, hơi xanh xao. Tóc ngang vai, trang phục bình thường. Thoạt nhìn Yên, tôi có ngay cái cảm giác... không thường ở nơi người con gái ấy. Tôi gọi Yên là con gái bởi cô không có cái dáng dấp của một người đàn bà. Cái... không thường tôi cảm nhận được nơi Yên là những điều... tôi đọc được ở trong ánh mắt, trong cái nhìn của Yên. Đó chính là cái lãng mạn năm 2000 tôi đang cầm trên tay.

Trước khi đi vào nhạc, tôi là một người yêu thơ. Yêu hơi sớm những bài thơ Lục Bát của nhà thơ Nguyễn Bính. Hơi sớm là bởi lúc đó tôi quá nhỏ, vừa qua tuổi lên 10. Yêu nhạc buồn. Yêu thơ sầu nên đời chẳng mấy lúc vui. Nhà thơ Nguyễn Đình Toàn dẫn đưa tôi vào thế giới của thơ... Đây Tao Đàn, tiếng nói của thơ văn miền Nam do Đinh Hùng phụ trách... Lúc đó tôi mới 14 tuổi, có thể là 13 không chừng. Đó là lúc tôi gặp ông Trần Dạ Từ người ngợm đen ngòm, quần áo xốc xếch, chân mang dép, cưỡi mô-by-lét. Mà tôi cũng chẳng đẹp hơn ông là bao nhiêu.

Cũng như khi bước vào nhạc, tôi chẳng hiểu vì sao cánh cửa nào cũng không nỡ vì tôi mà đóng lại. Trước T.C.S. cả gần chục năm là Nguyễn Đình Toàn giúp tôi làm quen với cả thơ và nhạc. Chẳng hiểu ông nhìn thấy cái gì ở tôi, trong giọng ngâm, trong tiếng hát của tôi. Tất cả mọi thứ ở tôi đều thuộc loại... không hẹn mà đến... Tôi như một bài thơ sai vần, một bài hát lạc điệu của một người lần đầu tiên làm thơ, viết nhạc. Thế nhưng tôi lại không hề bị chối từ. Sự chấp nhận dù không nồng nàn cũng là chấp nhận. Cánh cửa dù chỉ hé ra một chút, cũng có nghĩa là cửa không đóng và tôi có thể bước vào.

Tôi yêu thơ vô cùng. Thơ trở thành bạn, một tình bạn thủy chung cho tôi gửi gấm niềm riêng, đặc biệt là thơ Lục Bát. Đaặc biệt là thơ Nguyễn Bính. Sau đó nhiều năm, tôi thường ngâm cho T.C.S. nghe và lần cuối tôi cũng ngâm câu lục bát của Nguyễn Bính ở nhà anh chị Lễ vào một đêm mưa mùa mùa Đông đầu năm 75... “Mà sao giấc ngủ không dài. Mà đêm không ngắn mà trời cứ mưa. Ở đây tôi sống như thừa. Cố đem men rượu tẩm vừa lòng nhau...” Những người cùng ngồi với tôi đêm hôm đó, hiện đang ở rải rác khắp nơi. Chỉ thiếu một người. Một người không nên thiếu.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Tất cả đã là quá khứ, lặng lẽ và ngủ yên trong nấm mộ thời gian. Bốn câu thơ kia dẫu có ngàn năm nữa trôi qua, tôi cũng không hề quên mà mỗi lần ngâm lên, hình ảnh ngày xưa như mỗi lúc mỗi sáng hơn rực rỡ, đẹp đẽ hơn. Tôi đã thử có quên nhưng lại... quên trong nỗi nhớ. Từ những sợi nhớ mong manh nhưng dằng dặc như mây trời, mềm mại nhưng bền chắc và bất biến theo với thời gian, tôi biết rõ một điều tôi vẫn yêu thơ Lục Bát dù không phải của Nguyễn Bính. Cho đến tận bây giờ.

Cái xao xuyến bâng khuâng kia không phải tự dưng tôi cảm nhận được. Chính là từ Yên đó. Từ Ngô Tịnh Yên và lãng mạn năm 2000. Những câu thơ Lục Bát của Yên có một nét đẹp... bất thường. Nếu tôi đã từng nghĩ rằng tất cả những hạnh phúc tôi nhận được ở cõi sống này đều là những hạnh phúc tuyệt vời, đẹp đẽ đến xót xa thì Lục Bát của Yên cũng nằm trong đó. Đọc thơ Yên, tôi không buồn bã, không đau đớn mà... xót xa. Cái cảm giác này tôi đã trải qua khi hát một bài hát của T.C.S. Bất cứ bài nào, ngày xưa hay bây giờ. Nỗi xót xa kéo dài gần 30 năm. Gần nửa đời người. Nếu ai đó đã từng sống với những xót xa suốt nửa đời người giống như tôi, sẽ cảm nhận được điều này. Sẽ hiểu vì sao có những người khóc mà lệ chảy trong lòng.

Tôi không hề muốn làm một so sánh giữa nhạc và thơ dù cả hai đều cùng tôi rất gắn bó, dù thơ tự nó vốn đã là nhạc và nhạc T.C.S. vốn đã là thơ. Tôi chỉ muốn nói ra rằng tôi luôn luôn nhìn thấy một điều gì đó của chính mình trong nhạc T.C.S. và hôm nay trong thơ của Yên. Ngô Tịnh Yên. Hạnh phúc đắng cay và ai cũng muốn nếm thử ít nhất một lần trong đời.

Từ lâu rồi, tôi không còn tin ở câu... Văn là người. Không những không tin mà tôi còn thấy đó là một sự... khôi hài bi thảm. Nếu còn lại trong lòng tôi chút trân trọng để dành cho ai đó, thì điều đó vẫn còn nhưng không có nhiều người lắm... “Nhưng cuộc đời đã làm tôi sợ hãi. Người với người đã trở thành thiên tai”... Đó cũng là một trong những lý do vì sao niềm tin cứ ngày một hao hụt. Ở xứ lạ quê người, cứ thấy da vàng, tóc đen. Cứ nghe nói cùng một thứ tiếng, dù cho những ngày đông tháng giá, lòng bỗng ấm áp lạ thường. Cùng một thứ luân lạc bốn phương trời... Tương phùng hà tất tương thức... Thế mà những giây phút như thế cũng đã không hiểu từ lúc nào, đã trở thành những hạt bụi trong mắt. Đọc sách Mỹ. Có hiểu nó nói cái gì đâu. Ở Mỹ 22 năm rồi, vẫn Mỹ nói Mỹ nghe. Thôi ta đọc tiếng Việt cho... buồn chơi.

Tôi không hề nói rằng Thơ Yên Lục Bát Lãng Mạn năm 2000 là số một. Cũng như chưa bao giờ tôi bảo rằng nhạc T.C.S. là số một. Tôi đã yêu, đã đọc nhiều thơ của nhiều tác giả. Tôi vốn rất yêu thơ Du Tử Lê. Có điều nhạc T.C.S. cho tôi một nỗi buồn êm ái. Thơ Tịnh Yên cũng cho tôi nỗi buồn êm ái. Cả hai, bước vào tim tôi, hồn tôi ngay phút đầu tiên. Đến và ở lại mãi mãi dài lâu trong niềm tin vốn còn lại rất ít.

A, người con gái ngồi chờ tôi trước sân và đến khi gặp, lại chỉ nói vội với nhau vài câu, ngày hôm nay bỗng trở thành một nỗi buồn êm ái trong lòng tôi. Ngày hôm nay bỗng trở thành cái... bóng mát cho nỗi tan hoang... sơn cùng thủy tận (M.T.) của tôi, của nhiều người. Tịnh là Yên mà Yên cũng là Tịnh, cũng là Yên. Tên đã như thơ. Thơ đã là tên. Thơ có phải là người? Một người có cái nhìn rất lặng lẽ, thoáng một chút lạc lõng trong đời sống, thoáng một chút hồ nghi, sợ hãi với cuộc đời. Có phải đúng là nàng đó không, người con gái tôi đã gặp trong một thoáng vội vã và chỉ một lần.

Hôm nay là ngày đầu của một năm mới. 1997 rồi đấy. Ngày đầu của năm mới có gì lạ. Không có điều gì mới lạ xảy đến cho tôi, từ nhiều năm rồi. Tuy nhiên vì là ngày đầu tiên của 364 ngày còn lại, tôi gội đầu bằng bồ kết. Lựa một cái áo mầu tím than. Đeo hạt trai. Tôi vốn thích hạt trai nên cũng chẳng có một lựa chọn nào khác ngoài hạt trai. Trắng và đen. Ngọc trai và ngọc thạch, cả hai đã chẳng từng tượng trưng cho sự trân trọng mà đơn giản đó sao. Tôi thích cả hai vì như thế và hôm nay, tôi tự tay đeo cho mình rồi sửa soạn mặt mũi chỉnh tề. Không để làm gì cả mà cũng chẳng để cho ai ngắm bởi tôi hiện tại, đúng là chỉ một mình.

Một mình nhưng không tuyệt vọng. Trái lại, tôi có lúc lại cảm thấy hình như rất hài lòng với cái sự việc một mình này. Quanh tôi rất... Tịnh và Yên... Chỉ có tiếng hát của chính tôi cất lên một bài tình ca. Trong lòng tôi hát. Tiếng hát chỉ mình tôi nghe thấy quyện lấy những câu thơ Lục Bát, bất ngờ tạo một sự êm ả khiến tôi dường như thấy mình đang ở ngoài cuộc sống này. Những tàn tro bay lên từ những tờ giấy vàng đốt trước một phần mộ lẻ loi đâu đó ở một nơi rất xa mà cũng rất gần. Một khuôn mặt. Nhiều khuôn mặt chập chờn vừa rõ nét đã vỡ tan ra trăm nghìn mảnh cùng sương khói.

Đám lục bình nằm lặng lẽ trong vũng nước bên cạnh con đường nhỏ tráng nhựa dưới chân đèo Hải Vân. Mầu tím của hoa cũng lặng lẽ vươn lên trên mầu xanh của lá. Hai hàng phượng vĩ giao nhau tỏa bóng mát cùng với gió, thổi bay những tà áo trinh nguyên. Gió lên. Gió lên. Gió lên cao nữa đi. Hai hàng phượng vĩ quấn quýt đan lấy nhau như vòng tay những người tình siết chặt. Phượng bay như mưa dưới gót chân rất hồng. Phượng bay như mưa. Mưa hồng. Tiếng lá e dè chạm vào nhau. Tiếng phượng rơi nhẹ trên mặt đường, êm như tiếng ru. Có nhiều đời người không bao giờ muốn thoát ra khỏi tiếng ru êm ái đó. Tôi cũng vậy.

Lục bát của Yên cũng êm như tiếng ru. Cũng đẹp như những cành phượng hồng ở quê nhà. Cũng lặng lẽ như mầu tím của đóa hoa nhỏ nhoi bên đường. Lục Bát của Yên là một góc phố nhỏ cho riêng hai người yêu nhau. Lục Bát Yên là một cuối đường khuất bóng. Lục Bát Yên là tình yêu cuồng điên thơm mùi gối chăn da thịt. Một thứ tình yêu nhỏ máu chứ không nhỏ lệ. Lục Bát Yên là ân tình được ném ra từ một bàn tay, mất hút biệt tăm trong vô cùng vô tận.



Các bài viết về danh ca Khánh Ly

Chuyện chưa kể về lần trở về của Khánh Ly
Khánh Ly nghẹn ngào ngày trở về
Tuổi thơ dữ dội của Khánh Ly
Sớm muộn tôi cũng về, Khánh Ly
Như chưa hề có cuộc chia ly: Ra đi rồi trở lại, Khánh Ly
Khánh Ly mang hoa hồng vàng viếng mộ NS Trịnh Công Sơn


Sky thân tặng Bích Liên nhân đại hội Quảng Đà 2014
Đại Hội, tiền Đại Hội Liên Trường Quảng Đà 2014_Phần cuối
Tiền Đại Hội Liên trường Quảng Đà_ Santa Clara Convention Center
Đại hội Liên trường Quảng Đà_ Santa Clara Covention Center 2014
Sky3 chúc mừng : HỌP MẶT KỸ THUẬT HUẾ – 04-05-2014
AHKTĐN đón tiếp thầy TT Liệu và thầy cô VQ Hảo
Lưu lạc 5.800 km từ Mèo Vạc sang tận Pakistan

Chuyện chưa kể trở về lần nầy của danh ca Khánh Ly
Khánh Ly nghẹn ngào ngày trở về
“Tuổi thơ dữ dội” của ca sỹ Khánh Ly
Sớm muộn tôi cũng về _ Khánh Ly
Như chưa hề có cuộc chia ly: Ra đi rồi trở lại
Khánh Ly mang hoa hồng vàng viếng mộ NS Trịnh Công Sơn

Kết quả sơ bộ bầu cử tổng thống Ukraine: ‘Vua sô cô la” Poroshenko thắng áp đảo
CS truy bắt kẻ tẩm xăng đốt nhà như phim hành động
World Cup sẽ dùng công nghệ chống “bàn thắng ma”
Video: Lửa trong Vùng đất của Tuyết: Các vụ tự thiêu ở Tây Tạng

Đỉnh cao nghệ thuật đường phố
Liều mạng nhất hành tinh
Manaus, hành trình khám phá Amazon
Bóng đá đường phố Brazil
Thành phố Duyên hải Brazil
Rio Thành phố xinh đẹp Brazil
World Cup brazil nhìn từ trên cao
Brasilia _thành phố quyền lực Brazil
Salvador, Linh hồn châu phi của Brazil
Bài hát của tướng Thái Lan Prayuth gây “sốt” trên mạng
Trung Quốc: Rất sốc với những "GÓT SEN" lạ lùng
BÍ MẬT THẾ KỶ_ NHÀ TIÊN TRI VANGA
TÔI LÀ AI !?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những người bạn

 
Support : Creating Website | SkyskyskyTemplate | DoThanh Template
Proudly powered by Blogger
Copyright © 2011. KỸ THUẬT ĐÀ NẴNG - All Rights Reserved
Template Design by Creating Website Published by SkyDoThanh Template