Đỗ Xuân Thạnh_Skyskysky :

Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017

Kế chặn tên lửa Triều Tiên mà không gây đại chiến…



Kế chặn tên lửa Triều Tiên mà không gây đại chiến…


Video tên lửa đất đối hạm Triều Tiên phóng ra biển


Ông Steve Ganyard, cựu phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ và là một đại tá hải quân, vừa tiết lộ với kênh ABC News về một biện pháp khả thi để vô hiệu hóa tên lửa của Triều Tiên mà thế giới vẫn an bình.

Ngoại giao, trừng phạt thất bại

Theo ông Steve Ganyard, trong hai tháng qua, quá trình giải quyết mối đe dọa từ Triều Tiên về cơ bản đã thay đổi. Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un đã cho phóng một quả tên lửa có thể vươn tới hầu hết mọi nơi trên nước Mỹ, đã kích hoạt một quả bom nhiệt hạch có sức mạnh gấp ít nhất 20 lần so với quả bom nguyên tử bị thả xuống Hiroshima (Nhật) năm nào, đã cho thế giới thấy Triều Tiên có thể thu nhỏ vũ khí hạt nhân lắp vừa vào tên lửa đạn đạo liên lục địa.

Triều Tiên giờ đã trở thành mối nguy hiểm với Mỹ và đồng minh cũng như có nguy cơ gây bất ổn trên thế giới. Nguy cơ đó càng rõ sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa hủy diệt Triều Tiên trước Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 19/9 và Triều Tiên đáp trả bằng tuyên bố có thể thử bom nhiệt hạch trên Thái Bình Dương.

Trong bối cảnh đó, ông Ganyard cho rằng những lựa chọn không mấy dễ chịu đối với Tổng thống Mỹ Donald Trump không khác mấy so với lựa chọn của những tổng thống trước đó: dùng biện pháp ngoại giao nhiều hơn, trừng phạt kinh tế nhiều hơn, tấn công quân sự phòng ngừa vào các cơ sở tên lửa và hạt nhân Triều Tiên.

Biện pháp ngoại giao với Triều Tiên trong hàng chục năm qua đã thất bại. Khi tốc độ phát triển chương trình vũ khí hạt nhân Triều Tiên tiếp tục gia tăng, nước này không có động cơ để đàm phán và đã tuyên bố rõ ràng rằng sẽ không đàm phán về phi hạt nhân hóa. Trong khi đó, Mỹ không có gì mới để mang ra trao đổi với Trều Tiên.

Một điều quan trọng nữa là không có biện pháp trừng phạt kinh tế nào có thể hữu hiệu nếu thiếu sự hợp tác từ Trung Quốc. Mà việc Trung Quốc hợp tác toàn tâm toàn ý với Mỹ trong trừng phạt Triều Tiên khó có thể xảy ra vì bản thân Trung Quốc có lợi ích khi chính quyền ở Triều Tiên ổn định.

Các biện pháp trừng phạt Triều Tiên của Liên Hợp Quốc cũng bị Trung Quốc hạn chế mức độ nghiêm trọng, đến mức Tổng thống Trump coi các biện pháp này không phải là điều gì to tát. Như Tổng thống Nga Vladimir Putin từng nhận định, người Triều Tiên sẽ “ăn cỏ” nếu phải ăn để duy trì chương trình hạt nhân, tên lửa.

Thông thường, khi ngoại giao và trừng phạt thất bại thì quân sự sẽ “lên tiếng”. Tuy nhiên, vì có quá ít thông tin tình báo nên nếu tấn công phòng ngừa nhằm vào các cơ sở hạt nhân Triều Tiên, Mỹ sẽ chắc chắn đánh trượt các mục tiêu quan trọng của chương trình hạt nhân.

Điều đáng lo ngại hơn là một cuộc tấn công trực tiếp sẽ có nguy cơ kích hoạt một cuộc chiến hủy diệt trên bán đảo Triều Tiên, trong đó vũ khí hạt nhân có thể được sử dụng. Thậm chí, Triều Tiên có thể nã một loạt vũ khí hạt nhân vào lục địa Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ cũng không thể đứng yên cho phép Triều Tiên đe dọa và cho phép phổ biến công nghệ vũ khí hạt nhân. Vậy Mỹ và đồng minh cần làm gì?

Triều Tiên công bố hình ảnh phóng tên lửa qua Nhật Bản


“Kiềm chế chủ động”

Trong bối cảnh đó, chuyên gia Ganyard cho rằng còn có một lựa chọn khác, một chiến lược “kiềm chế chủ động” sử dụng năng lực quân sự sẵn có: xây dựng một vành đai phòng thủ tên lửa trong vùng biển quốc tế quanh Triều Tiên. Vành đai phòng thủ này sẽ hạ gục mọi tên lửa từ khi nó được Triều Tiên phóng.

Đây là cách tiếp cận có thể nhanh chóng giải quyết vấn đề khó khăn một cách hiệu quả mà lại vừa phải, có thể ngăn chặn ông Kim Jong Un tiếp tục phát triển các vũ khí hạt nhân.

Ông Ganyard cho rằng, ý tưởng này là khả thi xét tới công nghệ hải quân hiện nay. Hải quân Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có hệ thống radar Aegis hiện đại và có khả năng tương tác.

Các nước này có thể mua tên lửa SM-3, loại tên lửa có thể đánh chặn phần lớn tên lửa Triều Tiên trên đường bay. Điều quan trọng nhất là phiên bản Block IIA mới nhất của SM-3 cũng có thể hạ gục loại tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) cho dù tên lửa này vừa bay lên hay đang bay ở giai đoạn cuối.

Dữ liệu hải quân Mỹ được giải mật cho thấy chỉ cần hai tàu khu trục của Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc trong vùng biển quốc tế ngoài Triều Tiên là có thể tạo thành một vành đai phòng thủ tên lửa. Trong đó, một tàu ở Biển Nhật Bản gần phía đông Hàn Quốc và một ở phía nam Hàn Quốc ở Biển Hoàng Hải.

Các cảm biến trên không gian và radar hiệu quả ở Hàn Quốc và Nhật Bản có thể phát hiện tên lửa bay lên và truyền dữ liệu mục tiêu ban đầu về các tàu trên biển. Sau đó, các tàu có thể phóng tên lửa phá hủy tên lửa Triều Tiên đang bay. Quá trình đánh chặn có thể được tính toán sao cho nó xảy ra bên ngoài không phận Triều Tiên và sao cho các mảnh vỡ rơi xuống đại dương một cách vô hại.

Chiến lược này cũng giống như các chiến lược khác, tức là đều có rủi ro phải tính tới. Một rủi ro là có thể đánh trượt tên lửa Triều Tiên. Tuy nhiên, các nước có thể bẽ mặt trong lần đầu đánh trượt nhưng sẽ rút được kinh nghiệm để hoàn thiện năng lực kỹ thuật nhanh chóng để đánh trúng trong lần tiếp theo.

Vấn đề pháp lý của việc bắn hạ một tên lửa cũng được tính đến. Tuy nhiên, dù Triều Tiên có thể tuyên bố thử tên lửa hòa bình, nhưng Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể đưa ra lý do là phòng vệ tập thể.

Triều Tiên khó có thể coi các nước vi phạm chủ quyền hoặc khó có thể tìm kiếm sự thông cảm ở Liên Hợp Quốc khi mà chương trình tên lửa của nước này đã bị coi là bất hợp pháp. Đánh chặn tên lửa bất hợp pháp trên không phận quốc tế từ vùng biển quốc tế sẽ khiến Triều Tiên không có lý do để phản đối.

Rủi ro tồi tệ nhất trong cách này là Triều Tiên có thể đưa ra các động thái quân sự khác khi bị ngăn chặn khả năng phóng tên lửa.

Với các điểm mạnh và rủi ro nói trên, ông Ganyard cho rằng kiềm chế chủ động sẽ giải quyết không chỉ mối đe dọa hiện tại từ Triều Tiên mà còn cả mối đe dọa trong tương lai.

Triều Tiên có nhiều tiến bộ về tên lửa




Xem thêm
Cảnh báo ghê rợn của tướng Mỹ về chiến tranh với Triều Tiên

Một tướng Mỹ về hưu nói, kịch bản chiến tranh của Lầu Năm Góc cho thấy, một cuộc chiến thông

Thời báo Los Angeles dẫn lời Chuẩn tướng không quân về hưu Rob Givens cho hay, khả năng xảy ra một cuộc chiến thông thường với Triều Tiên là 50/50 và ít có khả năng chiến tranh hạt nhân bùng phát. Ngoài ra, con số 20.000 người chết không bao gồm thương vong ở Triều Tiên, quốc gia có 27-28 triệu dân.


Ảnh: KCNA
"Có quá nhiều người Mỹ cho rằng, xung đột với Triều Tiên sẽ giống cuộc chiến ở Iraq hoặc Afghanistan hay các chiến dịch ở Libya hoặc Syria, nhưng thực tế khác xa. Chỉ có một cách mà cuộc chiến có thể chấm dứt. Đó là Triều Tiên bại trận... nhưng với giá nào?", Tướng Givens - từng có thời gian đóng quân ở Bán đảo Triều Tiên, nói.

Tổng thống Mỹ Donald Trump từng thề Washington sẽ "phá hủy hoàn toàn" Triều Tiên trong một cuộc xung đột vũ trang. Tuy nhiên, viễn cảnh xung đột mà các nhà phân tích ở Bộ Quốc phòng Mỹ đưa ra cho thấy, chiến tranh với Triều Tiên sẽ không giống cuộc chiến ở Iraq, Afghanistan hay Libya.

Phát ngôn viên Lầu Năm Góc Christopher Logan hôm 25/9 cũng nói với CNBC rằng: "Rõ ràng, Triều Tiên là một mối đe dọa". Ông cũng cam kết, quân đội sẽ bảo vệ Mỹ và các đồng minh khỏi mối đe dọa đó.

Hôm 25/9, Ngoại trưởng Triều Tiên Ri Yong Ho buộc tội Tổng thống Donald Trump tuyên chiến với chính quyền Triều Tiên và đe dọa, Bình Nhưỡng có quyền bắn hạ máy bay ném bom chiến lược của Mỹ dù nó đang bay ở không phận quốc tế. Dù vậy, các chuyên gia quốc phòng vẫn nghi ngờ về khả năng bắn hạ máy bay Mỹ của Triều Tiên.

"Hệ thống phòng không của Triều Tiên không xuất sắc", Ian Williams, phó giám đốc Dự án tên lửa phòng thủ tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (tổ chức cố vấn ở Washington) cho hay.

CNBC dẫn lời giới phân tích cho biết, tên lửa đất đối không KN-06 mới của Triều Tiên có thể bảo vệ cho nước này và nó có vẻ giống hệ thống phòng không S-300 của Nga. Tuy nhiên, chưa có nhiều thông tin về năng lực radar của KN-06 và vũ khí chống máy bay này mới được đưa vào hoạt động hồi tháng 5.

Về con số 20.000 người chết mỗi ngày, ông Williams cho hay, ước tính đó dường như khá thực tế, đặc biệt với giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi các bên chưa chuẩn bị nhiều.

Các chuyên gia cho hay, nếu Triều Tiên dùng tới vũ khí hóa sinh, thì thương vong ở phía Hàn Quốc còn nặng hơn nhiều. Theo một số ước tính, Triều Tiên là nước sở hữu vũ khí hóa học nhiều thứ 3 thế giới, lên tới 5.000 tấn tác nhân hóa học.

Hàn Quốc đặc biệt dễ bị tổn thương trước một cuộc tấn công từ phía Triều Tiên.

Triều Tiên chiến đấu với Mỹ trên… video




Không phải Triều Tiên, đây mới là đe dọa lớn nhất của Mỹ

Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, Tướng Joseph Dunford đã nêu danh quốc gia là “mối đe dọa lớn nhất” của Washington trong một thập niên tới, và đó không phải là Triều Tiên.

Phát biểu trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ ngày 26/9, Tướng Joseph Dunford nêu rõ: “Tôi cho rằng, đến năm 2025, Trung Quốc có thể là mối đe dọa lớn nhất với Mỹ”.

Đây cũng là câu trả lời của ông Dunford sau khi nhận được câu hỏi từ Thượng nghị sĩ Mazie Hirono về việc vào năm 2015, vị tướng này từng nhận định Nga, tiếp đó là Trung Quốc và Triều Tiên, là mối đe dọa quân sự lớn nhất với an ninh quốc gia Mỹ.


Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, Tướng Joseph Dunford. Ảnh: Reuters

Kênh CNN (Mỹ) đưa tin Tướng Dunford ngày 26/9 coi Triều Tiên “nguy hiểm lớn nhất hiện nay” bởi “tính cấp bách” xuất phát từ chương trình hạt nhân và tên lửa của Bình Nhưỡng.

Bên cạnh đó, Tướng Dunford cho rằng Nga vẫn là “mối đe dọa quân sự lớn nhất” bởi tiềm năng của nước này trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân và tác chiến điện tử.

Nhưng ông Dunford khẳng định Trung Quốc sẽ trở thành đe dọa lớn nhất vào năm 2025. “Nếu xét đến năm 2025, khi tôi nhìn về tình hình kinh tế và nhân khẩu học thì Trung Quốc có lẽ là mối đe dọa lớn nhất với chúng ta”.

Ông Dunford phân tích: “Trung Quốc tập trung vào hạn chế khả năng viễn chinh của chúng ta và làm suy yếu đồng minh của Mỹ tại Thái Bình Dương. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như chủ trương tăng chi tiêu quốc phòng”.

Bản đánh giá khả năng quân sự Trung Quốc do Lầu Năm Góc thực hiện năm 2017 cho thấy từ 2007 đến 2016, mỗi năm trung bình mức tăng ngân sách dành cho quốc phòng của Bắc Kinh là 8,5%.

Tướng Dunford cho rằng trong tình hình Nga và Trung Quốc hiện đại hóa quân sự thì trong 5 năm tới Mỹ phải tăng ngân sách quốc phòng trong khoảng 3% đến 7% để duy trì cạnh tranh.

Trong tháng 8, Tướng Dunford đã tới thăm Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận với quân đội Trung Quốc về đảm bảo “liên lạc tốt hơn” giữa hai quốc gia.

Phát biểu vào thời điểm đó, Tướng Dunford cho biết thỏa thuận liên lạc sẽ giúp Mỹ và Trung Quốc giảm khả năng “tính toán sai” đồng thời ông nhận định có nhiều vấn đề khó khăn mà Bắc Kinh và Washington “không nhất thiết phải cùng quan điểm”.


Ý định thực sự của Kim Jong Un

Cuộc khẩu chiến giữa Mỹ và Triều Tiên liên tiếp diễn ra, đặc biệt sau mỗi lần Bình Nhưỡng thử nghiệm vũ khí.

Tổng thống Mỹ Donald Trump không ngần ngại dành cho lãnh đạo Triều Tiên những ngôn từ gay gắt. Trong suy nghĩ của ông chủ Nhà Trắng, lý do duy nhất chính quyền ông Kim Jong Un muốn phát triển vũ khí hạt nhân là để hủy diệt Mỹ và các đồng minh.


Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong Un thường đích thân giám sát các vụ thử vũ khí. (Ảnh: KCNA)
Nhưng nhà lãnh đạo Triều Tiên có thực sự muốn một cuộc chiến tranh với Mỹ?

Newsweek dẫn lời các chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề lên quan Triều Tiên khẳng định câu trả lời là Không – và mọi việc không hề đơn giản.

"Tôi không nghĩ [Kim Jong Un] muốn chiến tranh... Tôi nghĩ ông ấy biết rõ việc khởi đầu vũ lực của Triều Tiên sẽ vô cùng rủi ro và có thể dẫn đến kết quả mà ông ấy chắc chắn không muốn, đó là sự kết thúc của chế độ", Robert Einhorn thuộc Viện Brookings nói với Newsweek.

Theo ông Einhorn, sự khiêu khích thường thấy của Triều Tiên nằm trong một "chiến lược chủ ý".

"Tôi nghĩ tất cả những bước đi thực tế nhằm cải thiện năng lực ngăn chặn hạt nhân kỹ thuật cùng những phát ngôn đe dọa đã được hoạch định để... bảo vệ [Triều Tiên] khỏi những gì ông [Kim Jong Un] coi là ý định của Mỹ nhằm kết thúc chế độ này. Dù có vẻ không hợp lý nhưng tôi nghĩ [Kim Jong Un] là một người chơi rất lý trí", ông Einhorn bình luận thêm.

Theo hướng nhận định trên, Triều Tiên không hề muốn chiến tranh mà đơn giản là muốn cả thế giới, đặc biệt là Mỹ, biết rằng nước này sẵn sàng đứng lên chiến đấu để sinh tồn.

Đưa ra các đe dọa vừa mơ hồ vừa khuyếch đại chống Mỹ từ lâu đã là một phần chiến lược của Triều Tiên, có từ trước khi Kim Jong Un lên cầm quyền, theo Scott Snyder – Giám đốc Chương trình chính sách Mỹ - Triều tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.

"Người Triều Tiên luyện tập việc đưa ra những thông điệp nghe có vẻ đe dọa nhưng lại không ràng buộc họ vào tiến trình hành động cụ thể" - Scott Snyder nhận định với Newsweek.

Snyder tin rằng các động thái của Triều Tiên rất lôgic. "Tôi nghĩ mục tiêu chính của ông Kim là duy trì sự sống còn của chính mình. Đặc biệt, những gì ông Kim dường như nhắm tới là sự nhân nhượng trong lĩnh vực hạt nhân sau khi bị phơi ra trước đe dọa hạt nhân từ Mỹ".

Đến nay, Triều Tiên được cho có tối đa khoảng 60 vũ khí hạt nhân. Vẫn chưa rõ liệu nước này đã lắp được một đầu đạn hạt nhân vào tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) hay chưa.

Trong khi đó, Mỹ có 6.800 đầu đạn hạt nhân – kho nguyên tử lớn thứ 2 trên thế giới sau Nga. Mỹ hiện cũng là nước có quân đội mạnh nhất hành tinh, với những ICBM mang hạt nhân có tầm bắn 10.000km. Triều Tiên nhận thức rõ điều này và muốn bắt kịp.

Thêm nữa, ngay cả khi Triều Tiên phát triển thành công một vũ khí hạt nhân có thể bắn tới Mỹ thì nước này biết rằng hậu quả của việc sử dụng nó sẽ là sự phá hủy hoàn toàn.

Theo các chuyên gia, với thực tế hiện nay, sẽ không có một giải pháp đơn giản cho căng thẳng giữa Mỹ và Triều Tiên. Nhưng chắc chắn một điều, ông Kim Jong Un không mong muốn chiến tranh.


Triều Tiên

(theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: 조선, Chosǒn) hay Hàn Quốc (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân quốc: 한국, Hanguk) hay Korea (theo cách sử dụng quốc tế và có gốc từ "Cao Ly") là một nền văn hóa và khu vực địa lý nằm tại bán đảo Triều Tiên tại Đông Á. Khu vực này giáp liền với Trung Quốc về hướng tây bắc và Nga về hướng đông bắc, với Nhật Bản ở đông nam qua eo biển Triều Tiên. Từ "Triều Tiên" có nghĩa là "(Xứ) Buổi sáng tươi đẹp".

Hiện nay Triều Tiên được chia ra hai chính thể: Đại Hàn Dân quốc ở phía nam là một nước dân chủ tự do theo kiểu phương Tây và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc là một nước chuyên chính cộng sản (dân chủ nhân dân).

Là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới, Triều Tiên có lịch sử được ghi chép khoảng 3000 năm. Trong thế kỷ thứ 4, họ đã bắt đầu dùng hệ thống chữ Hán và chịu ảnh hưởng của Phật giáo, và nhiều khía cạnh văn hóa khác có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội này. Sau này Triều Tiên đã đem những bước tiến này cũng như những kỹ thuật họ tự khám phá vào Nhật Bản.

Sau khi thống nhất Tam Quốc vào năm 676, Triều Tiên đã được quản lý bởi một nhà nước và giữ được độc lập về chính trị cũng như văn hóa cho đến khi bị Mông Cổ xâm lược trong thế kỷ 13. Trong nhiều thế kỷ, Triều Tiên giữ một mối liên hệ gần gũi với Trung Quốc, cường quốc trong khu vực này, trong khi đồng thời giữ bản chất của mình.

Nền văn hóa Triều Tiên đã đem lại máy in đầu tiên, đồng hồ tự gõ, máy đo lượng nước mưa và tàu chiến bọc sắt. Văn hóa Triều Tiên đến được tột đỉnh trong thế kỷ 15, dưới thời Thế Tông Đại Vương (세종대왕). Sau đó Triều Tiên lao vào cảnh đình trệ vào phần sau của nhà Triều Tiên (Joseon), và đến cuối thế kỷ 19 đã bị các đế quốc dòm ngó.

Năm 1910, Triều Tiên bị Nhật Bản đóng chiếm và trở thành thuộc địa cho đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai. Hoa Kỳ và Liên Xô chiếm giữ nước này và lập ra những chính phủ trung thành với tư tưởng của họ, tạo ra tình huống ngày nay.

Tên gọi Triều Tiên

Tên gọi "Korea" xuất phát từ thời kỳ Cao Ly trong lịch sử Triều Tiên, cũng xuất phát từ nước Cao Cấu Ly. Nay tên gọi "Korea" được quốc tế sử dụng để chỉ đến cả hai nước.

Lịch sử

Đã có bằng chứng khảo cổ cho thấy loài người đã sống trên bán đảo Triều Tiên khoảng 700.000 năm trước, trong thời kỳ Hạ Đồ đá cũ. Đồ gốm Triều Tiên cổ xưa nhất có từ khoảng năm 7000 TCN, và thời kỳ Đồ đá mới bắt đầu khoảng năm 6000 TCN. Thời kỳ đồ gốm Trất Văn kéo dài từ 3500 TCN đến 2000 TCN.

Cổ Triều Tiên

Theo sự tích Đàn Quân, Triều Tiên được thành lập năm 2333 TCN. Quốc gia này được biết đến với tên Triều Tiên, thường được gọi là Cổ Triều Tiên để phân biệt với nhà Triều Tiên. Các nhà khảo cổ đã khai quật được các đồ tạo tác của Cổ Triều Tiên và các thành cổ khắp Triều Tiên và miền nam Mãn Châu.

Các tài liệu khảo cổ và sử sách cho biết nó có thể được thành lập từ một liên minh của các thành thành một nhà nước tập trung vào giữa thế kỷ 7 và 4 TCN, khi nó tự xưng là một vương triều và tuyên chiến với nhà Chu. Năm 108 TCN, nhà Hán tại Trung Quốc đã đánh bại Cổ Triều Tiên và lập ra 4 quận tại miền bắc Triều Tiên (kể cả một quận gần Bình Nhưỡng) và Mãn Châu chủ yếu để làm tiền đồn buôn bán. Đến 75 TCN, ba trong bốn quận đã bị thất thủ, nhưng còn một quận nằm dưới sự cai trị của nhà Hán cho tới năm 313.

Một quốc gia với tên gọi Thìn Quốc tồn tại ở miền nam Triều Tiên trước khi Cổ Triều Tiên bị sụp đổ. Tuy rất ít được biết về tổ chức chính trị của quốc gia này, các tạo tác bằng đồng thiếc từ thế kỷ 3 và 2 TCN đã được khai quật trong khu vực. Tam Hàn, ba liên minh có nguồn gốc từ Thìn, thay nước Thìn. Tại miền bắc, quốc gia Cao Câu Ly đã thống nhất Phù Dư, Ốc Trở và Đông Uế trong lãnh thổ Cổ Triều Tiên trước kia, và tiêu diệt quận của người Hán vào năm 313.

Tam Quốc

Ba nước Cao Câu Ly, Tân La và Bách Tế (hai nước sau phát sinh từ Tam Hàn) giành quyền với nhau và thâu tính các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực. Tổ chức nhà nước tinh vi được phát triển dưới dạng Khổng giáo và Phật giáo.

Cao Cấu Ly là nước mạnh nhất, nhưng luôn giao chiến với nhà Tùy và nhà Đường tại Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ 7, Tùy Dạng Đế đã đem 100 vạn quân qua xâm lấn Cao Câu Ly. Tuy nhiên, người Triều Tiên, dưới sự chỉ huy của tướng Eulji Mundeok (Ất Chi Văn Đức) đã đánh bại quân Hán. Việc này đã dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tùy. Nhà Đường cũng tiếp tục giao chiến với Cao Câu Ly.

Tuy là nước lạc hậu nhất trong lĩnh vực văn hóa trong Tam Quốc, Tân La có một truyền thống quân sự xung quanh các chiến sĩ được gọi là hoa lang (hwarang). Thoạt tiên Tân La sát nhập khối Già Da (Gaya), rồi liên minh với nhà Đường để thâu tính Bách Tế và, sau này, Cao Câu Ly. Việc này tạo ra nhà nước thống nhất đầu tiên tại Triều Tiên, thường được gọi là Tân La Thống nhất.

Bột Hải và Tân La Thống nhất

Tân La cuối cùng đuổi được quân nhà Đường ra khỏi lãnh thổ Cao Câu Ly. Vì lẽ đó, đến thế kỷ thứ 8, Tân La đã quản lý hầu hết bán đảo Triều Tiên và vì thế được gọi là Tân La Thống nhất. Đến cuối thế kỷ thứ 9, Tân La Thống nhất sụp đổ và thời Hậu Tam Quốc bắt đầu.

Sau khi Cao Cấu Ly sụp đổ, tướng Đại Tộ Vinh (Dae Joyeong) lãnh đạo quân dân đến khu vực Cát Lâm của Mãn Châu. Vị tướng này thành lập nước Bột Hải như nhà nước tiếp kế Cao Cấu Ly và giành lại được khu vực miền bắc bị mất. Cuối cùng, lãnh thổ Bội Hải đã trải dài từ Tùng Hoa Giang và Hắc Long Giang ở miền bắc Mãn Châu đến các tỉnh miền bắc Triều Tiên. Trong thế kỷ thứ 10, Bột Hải đã bị người Khiết Đan chiếm đóng.

Triều đại Cao Ly (918-1392)

Vương triều Cao Ly thay thế Tân La Thống nhất. Nhiều vương thân từ nước Bột Hải cũng tham gia vào quốc gia mới này, có lãnh thổ rộng hơn bán đảo Triều Tiên (xem Gian Đảo, nay dưới sự quản lý của Trung Quốc). Trong thời kỳ này, luật pháp đã được soạn ra, một hệ thống quan lại cũng ra mắt vào thời điểm này, và Phật giáo trở thành thịnh hành tại Triều Tiên.

Trong thế kỷ thứ 10 và 11, Triều Tiên tiếp tục bị người Nữ Chân và Khiết Đan tấn công tại biên giới phía bắc. Xung đột giữa các quan lại văn và võ ngày càng tăng khi các quan võ bị hạ thấp địa vị và được trả tiền ít hơn. Việc này khiến nhiều tướng cầm quân kháng cự và một số khác di cư tại nơi khác.

Trong năm 1238, quân Mông Cổ xâm chiếm Triều Tiên. Sau gần 30 năm kháng chiến, Triều Tiên tiêu tàn và hai nước ký hiệp ước có lợi cho Mông Cổ. Dưới sự điều khiển của Mông Cổ, Cao Ly tham gia vào hai cuộc xâm chiếm Nhật Bản không thành. Trong thập niên 1340, Đế quốc Mông Cổ bị nhanh chóng suy sụp vì có xung đột nội bộ. Lúc này Triều Tiên có thể cải cách chính trị mà không bị Mông Cổ quấy rối. Vào thời điểm này, tướng Lý Thành Quế (Yi Seong-gye) lập danh cho mình bằng cách đánh đuổi hải tặc Nhật Bản, được gọi là Uy khấu (giặc lùn), đã cướp bóc từ các tàu lái buôn của Trung Quốc và Triều Tiên và tàn phá bờ biển Triều Tiên.

Triều đại Triều Tiên (1392-1910)

Năm 1392, Ly Thành Quế thành lập nhà Triều Tiên (Joseon), dời thủ đô đến Hán Thành (Hanseong, nay là Seoul). Trong 200 năm đầu của triều đại này, lãnh thổ miền Bắc được thêm vào, diện tích đất trồng trọt được tăng gấp hai, khoa học và kỹ thuật phát triển, chữ viết mới Hangul phù hợp với tiếng Triều Tiên được sáng chế, và nhiều sách vở về giáo dục cơ bản được xuất bản, trong khi hiến pháp và luật pháp được hoàn thành.

Trong cuối thập niên 1590, Nhật Bản hai lần xâm lăng Triều Tiên nhưng không thành, gây ra nhiều sự tàn phá. Những người xâm lược đốt hết những gì họ không đem về Nhật Bản được và nhiều tạo tác văn hóa bị mất tích. Với sự giúp đỡ của quân Minh và tàu chiến bọc sắc của đô đốc Lý Thuấn Thần (Yi Sunsin), quân Triều Tiên đẩy lùi được quân Nhật.

Tuy thế, sau sự xâm lăng của Nhật Bản, trong thập niên 1620 và 1630 nhà Triều Tiên không thể kháng cự quân Mãn Châu. Cuối cùng nó phải công nhận nhà Thanh là triều đại tại Trung Quốc. Sau đó Triều Tiên được hai thế kỷ hoà bình. Quốc gia này đã cách ly với thế giới bên ngoài vào thời điểm này và được gọi là "Vương triều ẩn dật".

Nhà Triều Tiên được cho là triều đại cai trị lâu dài nhất tại Đông Á.

Nhật Bản chiếm đóng

Bắt đầu từ đầu thập niên 1870, Nhật Bản bắt đầu cưỡng bức Triều Tiên ra khỏi khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc và vào khu vực của Nhật. Năm 1895, Hoàng hậu Minh Thành(Myeongseong) bị quân Nhật dưới sự chỉ đạo của Miura Goro ám sát. Sau Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản giành được ưu thế tại Triều Tiên. Năm 1910, Nhật Bản cưỡng bức Triều Tiên ký Điều ước Sát nhập Hàn-Nhật.

Sự cai trị của Nhật rất tàn bạo và nhiều người Triều Tiên đã kháng cự, cuối cùng dẫn đến phong trào đòi độc lập. Phong trào này đã bị Nhật đàn áp dã man và hàng ngàn người đã bị Nhật giết hại.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều người Triều Tiên đã bị cưỡng bức hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Nhật. Hàng vạn người đàn ông đã bị bắt đi lính trong quân đội Nhật, trong khi đến 200.000 phụ nữ đã bị cưỡng bức lao động hay làm nô lệ tình dục, được gọi là "úy an phụ" (慰安婦, 위안부). Khoảng 60.000 người Triều Tiên làm việc trong hầm mỏ đã bị thiệt mạng giữa 1939 và 1945, và vô số khác bị dùng làm thí nghiệm cho Đơn vị 731.

Thái độ bài Nhật vẫn còn mạnh mẽ tại Triều Tiên, đặc biệt là trong thế hệ già, vì họ tin rằng Nhật Bản không tỏ ra hối hận cho những điều sai trái này.

Đất nước chia cắt

Sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, chính phủ đế quốc Nhật được thay thế bởi sự hiện diện của Hoa Kỳ và Liên Xô. Liên Xô ủng hộ chính quyền miền bắc, đồng thời cũng có quan hệ với Trung Quốc; Hoa Kỳ có quan hệ gần gũi với chính quyền ở miền nam, giúp đỡ những người có kinh nghiệm dưới thời Nhật lên cầm quyền và đàn áp những người cộng sản. Người Triều Tiên bị chia rẽ: những người tay sai Nhật thiếu sự tín nhiệm của người dân, nhưng họ có nhiều kinh nghiệm và giữ quyền. Chủ nghĩa cộng sản ngày càng thâm nhập vào Triều Tiên và những người Triều Tiên đã từng chiến đấu chống Nhật cùng với Trung Quốc được nhiều quyền lực và danh tiếng.

Chiến tranh Triều Tiên và hy vọng thống nhất

Theo một số nhà khoa học chính trịai?, Chiến tranh Triều Tiên là kết quả trực tiếp của chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã ủng hộ những người theo chủ nghĩa chống cộng, hậu thuẫn quân đội Đại Hàn Dân Quốc, và ảnh hưởng Liên Hiệp Quốc để ủng hộ quân đội này. Trong năm 1945, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Hiệp Quốc dự định tạo ra một chính quyền ủy nhiệm, Hoa Kỳ điều khiển bán đảo này phía nam vĩ tuyến 38 và Liên Xô điều khiển phía bắc. Tình thế chính trị của Chiến tranh Lạnh đã dẫn đến sự hình thành của hai chính phủ.

Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ rời khỏi Hàn Quốc và chỉ để lại một số cố vấn, Bắc Triều Tiên tấn công vào miền nam. Chiến tranh bắt đầu vào tháng 6 năm 1950 và diễn tiến đến năm 1953. Hoa Kỳ hậu thuẫn miền nam và Trung Quốc hậu thuẫn miền bắc. Hàng triệu người Triều Tiên bị thiệt mạng. Sau ba năm dữ dội, chiến tranh kết thúc với một hiệp ước đình chiến, và ranh giới của hai nước trở lại gần như cũ. Hai nước vẫn chưa ký hiệp ước hòa bình. Cả hai bên đều tuyên bố thống nhất là mục đích cuối của họ.

Từ thập niên 1990, với chính quyền ở Hàn Quốc ngày càng tự do hơn, cũng như sau cái chết của lãnh tụ cộng sản Bắc Triều Tiên Kim Nhật Thành, hai bên đã có những bước tiến đến cộng tác, trong các cuộc thi thể thao quốc tế, việc đoàn tụ thân nhân, kinh tế và du lịch.

Gần đây, trong nỗ lực hòa giải, hai quốc gia đã chọn một Cờ Thống nhất. Trong khi lá cờ này tượng trưng cho Triều Tiên trong các cuộc thi thể thao quốc tế, nó không phải là quốc kỳ của Hàn Quốc hay CHDCND Triều Tiên. Cả hai vẫn dùng quốc kỳ mà họ dùng từ khi nhà nước thành lập năm 1948.

Địa lý

Triều Tiên nằm trên bán đảo Triều Tiên tại đông bắc châu Á. Nó có ranh giới với hai quốc gia và ba biển. Ở phía tây bắc, Áp Lục Giang chia Triều Tiên ra khỏi Trung Quốc và về hướng bắc, Đồ Môn Giang tách Triều Tiên từ Nga. Hoàng Hải nằm tại hướng tây, biển Hoa Đông ở phía nam, và Biển Nhật Bản ở hướng đông. Tổng diện tích của Triều tiên là 120,410 km2. Các đảo đáng kể gồm có Jeju, Ulleungdo.

Phần phía nam và phía tây của vùng đất lục địa Triều Tiên là những đồng bằng phát triển, trong khi phần phía tây và phía bắc có nhiều đồi núi. Núi cao nhất Triều Tiên là núi Bạch Đầu (Baekdu) (2744 m, Trung Quốc gọi là "núi Trường Bạch"). Biên giới với Trung Quốc chạy qua dãy núi này. Phần kéo dài về phía nam của núi Bạch Đầu là một cao nguyên gọi là cao nguyên Kaema. Cao nguyên này chủ yếu được nâng lên vào thời Đại Tân Sinh và một phần bị bao phủ bởi tro núi lửa. Về phía nam của Gaema Gowon, nhiều dãy núi kế tiếp toạ lạc dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo Triều Tiên. Những dãy núi này được đặt tên là Baekdudaegan (Bạch Đầu đại cán). Một số núi quan trọng bao gồm Sobaeksan(2.184 m), Baeksan (1.724 m), Kim Cương sơn (1.638 m), Seoraksan (1.708 m), Taebaeksan (1.567 m) và Jirisan (1.915 m). Có một số núi thấp hơn, những dãy núi thứ hai có hướng gần như vuông góc với hướng núi Baekdudaegan. Chúng phát triển dọc theo đường nối lục địa thời Đại Trung Sinh và hướng của chúng là tây bắc và tây tây bắc.

Tương phản với những dãy núi cổ trên lục địa, một số đảo quan trọng của Triều Tiên được hình thành bởi các hoạt động núi lửa trong thời Đại Tân Sinh gần đây. Đảo Jeju, tọa lạc xa về phía nam của bán đảo Triều Tiên, là một đảo núi lửa lớn với núi chính là Hallasan (1950 m). Ulleungdo là đảo núi lửa trên Biển Nhật Bản, mà thành phần có nhiều felsic hơn Jeju. Những đảo núi lửa có xu hướng trẻ hơn đối với các núi di chuyển về phía tây.

Bởi vì những vùng núi có hướng ngả về phần đông của bán đảo, những con sông lớn có xu hướng chảy về phía tây. Hai trường hợp ngoại lệ là sông Nakdong và sông Seomjin chảy về phía nam. Các con sông quan trọng chảy về phía tây bao gồm sông Áp Lục, sông Chongchon, sông Đại Đồng, sông Hán, sông Geum và sông Yeongsan. Những con sông này làm ngập các đồng bằng và cung cấp một môi trường lý tưởng cho việc trồng lúa.

Phía nam và tây nam bờ biển của bán đảo Triều Tiên là đường bờ biển Lias khá phát triển. Nó được biết đến như là Dadohae trong tiếng Triều Tiên. Đường bờ biển phức tạp tạo ra những biển ôn hòa và môi trường biển tĩnh lặng cho phép tàu thuyền đi lại an toàn, đánh cá và trồng rong biển. Thêm vào đường bờ biển phức tạp, bờ phía tây của bán đảo Triều Tiên có cường độ thủy triều rất cao (tại Incheon, khoảng giữa bờ biển phía tây, nó cao đến 9 m). Những tấm chắn thủy triều lớn đang được phát triển trên bờ biển phía nam và tây của bán đảo Triều Tiên.

Nhân khẩu Triều Tiên được định cư bởi một sắc tộc thuần nhất là người Triều Tiên. Họ sử dụng một ngôn ngữ riêng là tiếng Triều Tiên và hệ thống chữ viết đặc thù hangul.

Sắc tộc thiểu số sinh sống trên bán đảo Triều Tiên có thể kể tới người Hoa (khoảng gần 20.000) ([2]) chủ yếu ở Hàn Quốc. Ngoài ra có một vài nhóm cộng đồng người gốc Hoa và gốc Nhật được cho là còn định cư ở phía bắc Triều Tiên [3]).

Lực lượng lao động nước ngoài ở Hàn Quốc chủ yếu bao gồm những lao động đến từ các nước như Bangladesh, Pakistan, Philippines và Việt Nam, tổng cộng khoảng hơn nửa triệu. Cũng có thể kể tới hơn 10.000 người Mỹ, Úc, Anh, Canada, Ireland làm công tác giảng dạy tiếng Anh tại đây. Và khoảng 30.000 lính Mỹ đồn trú thường trực trên lãnh thổ Hàn Quốc.

Tổng dân số trên bán đảo Triều Tiên là khoảng 73 triệu người.

Văn hóa

Trong các sách Trung Hoa cổ, Triều Tiên được nhắc đến như là "Cẩm tú giang sơn" (금수강산, 錦繡江山) và "Đông phương lễ nghi chi quốc" (동방예의지국, 東方禮儀之國). Trong suốt thế kỉ thứ 7 và thứ 8, buôn bán thương mại đường bộ và đường thủy nối Triều Tiên với Ả Rập Saudi. Xưa nhất là từ năm 845, những thương Ả Rập đề cập Triều Tiên với câu nói "Phía bên kia biển qua khỏi Trung Quốc là một đất nước nhiều đồi núi gọi là Silla (신라), giàu vàng. Các tín đồ Hồi giáo từng đặt chân đến đây đã bị đất nước này quyến rũ đến nỗi mà họ ở lại luôn nơi đó và không muốn rời đi."[4]

Theo sử sách Nhật Bản, các học giả Triều Tiên đã giới thiệu kiến thức và kỹ thuật của Trung Quốc, kể chữ Hán và những tác phẩm kinh điển, như Luận ngữ, vào Nhật Bản. Vào năm 554, một vương quốc Triều Tiên tên là Bách Tế gửi bác sĩ, chuyên gia dược thảo và làm lịch và thầy tu đến Nhật Bản; và năm 602, một sư Bách Tế tên là Kwalluk được gửi đi để đem các sách về thiên văn học, làm lịch, địa lý và tôn giáo.

Những hội hè Triều Tiên thường phô diễn nhiều màu sắc sặc sỡ, được gán cho những ảnh hưởng từ Mông Cổ: đỏ sáng, vàng và xanh thường đánh dấu những nét truyền thống của Triều Tiên.[5] Những màu sắc tươi sáng đôi khi được thể hiện ở trang phục truyền thống hanbok.

Một đặc điểm của văn hóa Triều Tiên là hệ thống tính tuổi. Trẻ vừa sinh ra được xem là một tuổi, vì người Triều Tiên nghĩ thời kỳ mang thai như là một năm cuộc sống của trẻ, và tuổi tác sẽ tăng vào ngày đầu năm thay vì vào ngày kỉ niệm sinh nhật. Do đó, một người sinh ra ngay trước ngày đầu năm mới chỉ được vài ngày tuổi theo cách tính của phương Tây, nhưng là hai tuổi tại Triều Tiên. Theo đó, tuổi trên giấy tờ của ngườiTriều Tiên (ít nhất là giữa những người Triều Tiên cùng độ tuổi) sẽ nhiều hơn một hoặc hai năm so với tuổi theo cách tính của phương Tây. Tuy nhiên, cách tính của phương Tây đôi khi được áp dụng trong các khái niệm về tuổi hợp pháp, ví dụ, tuổi hợp pháp để mua rượu hoặc thuốc lá tại Triều Tiên là 19 được xác định theo cách tính của phương Tây là 18 tuổi.

Hàn Quốc có chung nền văn hoá truyền thống với CHDCND Triều Tiên. Tuy vậy, văn hoá hiện đại của hai quốc gia này có nhiều điểm lại khác biệt nhau.

Tôn giáo

Truyền thống Khổng giáo đã thống trị ý nghĩ của người Triều Tiên, cùng với các đóng góp của Phật giáo, Đạo giáo và Shaman giáo. Tuy nhiên, từ giữa thế kỉ 20 Cơ Đốc giáo đã cạnh tranh với Phật giáo để trở thành một ảnh hưởng tôn giáo chính ở Nam Triều Tiên, trong khi đó hoạt động tôn giáo bị đàn áp ở Bắc Triều Tiên.

Trong suốt chiều dày lịch sử và nền văn hóa Hàn Quốc, bất chấp bị chia rẽ, ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống của Saman giáo Hàn Quốc, Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo giáo vẫn là một tôn giáo cơ bản của người dân Hàn Quốc, đóng vai trò như một khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa dân tộc. Tất cả các truyền thống này đã cùng tồn tại hòa bình từ hàng trăm năm trước đến nay bất kể xu hướng Âu hóa mạnh mẽ từ phương Tây của quá trình chuyển đổi truyền giáo Cơ đốc ở miền Nam[6][7][8] hay áp lực từ chính phủ Cộng sản Juche ở miền Bắc.[9][10]

Theo số liệu thống kê đến năm 2005 do chính phủ Hàn Quốc cung cấp, có khoảng 46% của công dân cho biết không theo tôn giáo nào. Người theo đạo Cơ đốc chiếm 29,2% dân số (trong số đó là đạo Tin Lành 18,3%, Công giáo 10,9%) và 22,8% là Phật tử.[11]

Tại Hàn Quốc có khoảng 45.000 người bản địa theo Hồi giáo (khoảng 0,09% dân số), bổ sung vào con số 100.000 lao động nước ngoài từ các quốc gia Hồi giáo.[12]

Giáo dục

Người Triều Tiên coi trọng học thức và ưu đãi giáo dục và học hỏi các kinh điển Trung Quốc; những đứa bé lưỡng ban được giáo dục kỹ bằng chữ Hán. Cho đến thời hiện đại, người Triều Tiên đặt nặng vào địa vị cha truyền con nối. Cho đến thế kỉ thứ 10, "địa vị cốt lõi" của một người đàn ông (xác định bởi thứ bậc của cha và mẹ anh ta) định ra vị trí xã hội của anh ta và vị trí nào trong nhà nước anh ta được chỉ định. Từ thế kỉ thứ 10 đến hết thế kỉ 19, vị trí xã hội của cha và mẹ của anh quyết định các kì thi dân sự, nếu có, anh có thể tham dự nhưng không bảo đảm sẽ có được vị trí đó.

Vào tháng 4 năm 2006, Hàn Quốc trở thành nước đầu tiên trên thế giới cung cấp dịch vụ nối mạng Internet tốc độ cao đến tất cả các trường tiểu học và trung học [13].

Văn học

Văn học Triều Tiên được ghi lại trước khi triều đại Joseon kết thúc được gọi là "Cổ điển" hay "Truyền thống". Văn học viết bằng Hán tự ra đời cùng thời điểm khi chữ viết Trung Quốc du nhập vào bán đảo. Vào đầu thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, các nhà học giả Triều Tiên đã viết thơ theo phong cách cổ điển, phản ánh những tâm lý và trải nghiệm của người Triều Tiên thời gian đó. Văn học cổ điển Triều Tiên có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian truyền thống và những câu chuyện dân gian của bán đảo. Văn học thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.

Văn học hiện đại thường gắn liền với sự phát triển của hệ chữ hangul, điều này giúp cho việc đọc viết chữ lúc đầu chỉ dành cho tầng lớp quý tộc sang người dân thường và phụ nữ. Tuy nhiên, mãi đến nửa sau thế kỷ 19, hangul mới đạt đến vị trí thống trị trong văn học Triều Tiên, đem lại sự phát triển lớn mạnh cho nền vă học này. Điển hình như Sinsoseol là một tác phẩm tiểu thuyết được viết bằng hangul.

Chiến tranh Triều Tiên khiến văn học phát triển theo chiều hướng xoay quanh những vết thương và sự hỗn loạn của chiến tranh. Phần lớn các tài liệu sau chiến tranh ở Nam Triều Tiên đều đề cập đến cuộc sống hàng ngày của người dân bình thường và sự đấu tranh với nỗi đau quốc gia của họ. Một vấn đề phổ biến khác của thời đại là sự sụp đổ của hệ thống giá trị truyền thống Hàn Quốc.

Ẩm thực

Ẩm thực Triều Tiên có lẽ nổi tiếng nhất với món kim chi, một món ăn sử dụng quá trình lên men đặc biệt để bảo quản một số loại rau, trong đó phổ biến nhất là bắp cải. Đây là một loại thực phẩm lành mạnh vì nó cung cấp các vitamin và chất dinh dưỡng cần thiết. Gochujang (một loại nước sốt truyền thống Triều Tiên làm từ ớt đỏ) rất thông dụng, cũng như tương tiêu (hoặc ớt), là những món điển hình của nền ẩm thực nổi tiếng với vị cay.

Bulgogi (thịt nướng tẩm sốt, thường là thịt bò), galbi (xương sườn cắt khúc tẩm gia vị nướng) và món samgyeopsal (thịt lợn ở phần bụng) đều là những đặc sản từ thịt phổ biến. Cá cũng là một thực phẩm phổ biến, vì nó là loại thịt truyền thống mà người Triều Tiên hay dùng. Bữa ăn thường đi kèm với súp hoặc món hầm, chẳng hạn như galbitang (xương sườn hầm) và doenjang jjigae (canh súp đậu lên men). Giữa bàn ăn là đủ loại món ăn phụ gọi là banchan.

Các món ăn phổ biến khác gồm bibimbap - có nghĩa là "cơm trộn" (cơm trộn với thịt, rau, tương ớt đỏ) và naengmyeon (mì lạnh). Một món ăn nhanh phổ biến khác là kimbab, gồm cơm trộn với rau và thịt cuộn trong lớp rong biển. Tuy ngày càng có nhiều thành phần thức ăn được cuộn trong kimbab nhưng cá dù sống hoặc chín vẫn hiếm khi được sử dụng, có lẽ do nguồn gốc kimbap là một món ăn cầm tay hoặc món ăn nhanh có thể gói lại mang đi, trong khi đó cá có thể nhanh chóng hư hỏng nếu không được đông lạnh.

Mì ăn liền cũng là một loại thức ăn nhẹ rất phổ biến. Người Triều Tiên cũng thích dùng các loại thức ăn từ pojangmachas (bán dạo trên đường phố), ở đây người ta có thể mua tteokbokki (bánh gạo và bánh cá với nước sốt gochujang cay), khoai tây chiên mực và khoai lang tẩm. Soondae là loại một xúc xích làm bằng mì sợi trong suốt và huyết lợn cũng được rất nhiều người ưa thích.

Ngoài ra, một số món ăn nhẹ phổ biến khác bao gồm chocopie, bánh tôm, bbungtigi (bánh gạo giòn) và "nu lung ji" (cơm cháy nhẹ). Có thể ăn sống nu lung ji hoặc đun với nước để tạo ra một món canh. Nu lung ji cũng có thể được dùng như một món ăn nhanh hay món tráng miệng.

Thể thao

Hàn Quốc là nước chủ nhà trong Thế vận hội mùa hè 1988 ở Seoul, giúp thúc đẩy kinh tế nước này thông qua tăng cường du lịch và sự công nhận rộng rãi hơn của thế giới. Vào thời điểm đó, Bắc Triều Tiên tẩy chay sự kiện đó với lý do là họ không được mời làm nước đồng chủ nhà.

Một đội thống nhất dưới lá Cờ Thống nhất vào năm 1991 đã thi đấu trong giải Vô địch bóng bàn thế giới lần thứ 41 ở Chiba, Nhật Bản và trong Giải bóng đá trẻ thế giới lần thứ 6 ở Lisboa, Bồ Đào Nha. Một đội tuyển của toàn bộ Triều Tiên diễu hành dưới Cờ Thống nhất trong lễ khai mạc Thế vận hội mùa hè 2000 ở Sydney, Á vận hội 2002 ở Busan, Thế vận hội mùa hè 2004 ở Athena và Thế vận hội mùa đông 2006ở Torino nhưng thi đấu riêng trong các sự kiện thể thao. Cũng như trong Á vận hội 2006, các viên chức Hàn Quốc đã công bố rằng cả hai nước sẽ thi đấu trong cùng một đội.

Vào mùa hè năm 2002, Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 được tổ chức bởi Hàn Quốc và Nhật Bản trên 10 sân vận động của mỗi nước. Tuy nhiên hai nước Triều Tiên thi đấu như hai đội khác nhau. Đã có vài đề nghị là Bắc Triều Tiên nên đứng ra làm chủ nhà cho một hay hai trận, nhưng không có điều gì như thế đã xảy ra. Trong khi Hàn Quốc tự động được vào vòng chung kết vì là nước đồng chủ nhà và đã vào tận bán kết (xếp thứ 4, thua Thổ Nhĩ Kỳ), Bắc Triều Tiên đã không qua được vòng loại khu vực châu Á (thuộc liên đoàn bóng đá châu Á) và không tham dự vòng chung kết.

Điện ảnh

Điện ảnh bán đảo Triều Tiên là nền nghệ thuật và công nghiệp điện ảnh của Triều Tiên (tính cho đến trước năm 1945) và của hai nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên - Hàn Quốc (kể từ năm 1945 đến nay). Chịu ảnh hưởng từ nhiều biến cố chính trị xảy ra trong suốt thế kỉ 20, từ giai đoạn Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, Chiến tranh Triều Tiên đến giai đoạn chia cắt hai miền từ năm 1953 đến hiện tại, điện ảnh Triều Tiên cũng có nhiều thăng trầm.

Khoa học và kỹ thuật

Một trong những di tích nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học và kỹ thuật của Triều Tiên là Chiêm tinh đài (Cheomseongdae), một đài quan sát thiên văn cao 9 mét xây dựng vào năm 633. Nó phục vụ như là một trong những trạm quan sát thiên văn cổ xưa nhất của thế giới.

Tài liệu được in ấn xưa nhất trên thế giới là một quyển kinh Phật in tại Triều Tiên vào khoảng 750-751. Bản in bằng kim loại di chuyển được phát minh ở Triều Tiên vào năm 1232, trước khi Johann Gutenberg phát triển bản in chữ bằng kim loại (Cumings 1997: 65). Mặc dù người Triều Tiên sử dụng các khuôn in bằng gỗ vào năm 751, đây là một phát triển đáng kể trong việc in ấn cho phép tiếp tục sử dụng một khuôn in cũ. Hangul, một trong những ngôn ngữ phiên âm khoa học nhất thế giới, được tạo ra bởi vua Thế Tông vào năm 1443. Một trong những đồng hồ nước tự động đầu tiên trên thế giới được sáng chế năm 1434 bởi Chang Yong-sil, người sau này phát triển các loại đồng hồ nước phức tạp hơn với các thiết bị thiên văn, đo nước, đo lượng mưa.

Trong suốt thời đại nhà Triều Tiên, tơ lụa Triều Tiên được đánh giá cao bởi Trung Quốc và đồ gốm Triều Tiên tráng men xanh có giá trị cao ở Nhật. Người Trung Quốc nghĩ rằng đồ sành sứ Triều Tiên có chất lượng cao, nhưng điều này chỉ đúng cho đến hết triều đại Cao Ly. Trong suốt giai đoạn này, Triều Tiên đạt được nhiều tiến bộ trong các nghệ thuật và đồ thủ công truyền thống, chẳng hạn như men sứ trắng, tơ lụa mịn và giấy. Cũng trong thời gian này, tàu chiến bọc sắt đầu tiên trên thế giới, Geobukseon (hay "Tàu con rùa"), được phát minh.

Tuy nhiên, sự ngưng trệ bắt đầu xảy ra trong thời gian sau của triều đại Joseon và Triều Tiên trở nên lạc hậu so với phương Tây.

Ngày nay, Nam Triều Tiên dẫn đầu thế giới với số lượng kết nối mạng Internet tốc độ cao tính trên đầu người. Nam Triều Tiên cũng là nhà sản xuất lớn các sản phẩm công nghệ cao như điện thoại di động và màn ảnh plasma. Nam Triều Tiên cũng chỉ đứng thứ hai trên thế giới trong việc sử dụng các kỹ thuật tiêu thụ mới, chỉ sau Đài Loan. Bắc Triều Tiên tiếp tục sử dụng hầu hết các kỹ thuật lạc hậu từ thập niên 1960 và thập niên 1970.

Chú thích

1. ^ Castello-Cortes 1996, tr. 413, North Korea.
2. ^ Castello-Cortes 1996, tr. 498, South Korea.
3. ^ Novak, Cathy (13 tháng 8 năm 2015). “North Korea sets clocks back 30 minutes creating its own time zone”. CNN. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2016.
4. ^ “The kingdom of Silla and the treasures of Nara (ancient Korea kingdom; Buddhist temple in Nara, Japan)”. Ccbs.ntu.edu.tw. Ngày 19 tháng 2 năm 1991. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
5. ^ “Pacific Asia Museum”. Pacific Asia Museum. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
6. ^ “About Korea — Religion”. Korea.net. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
7. ^ “South Koreans”. Every Culture. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
8. ^ “Culture of South Korea”. Every Culture. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
9. ^ “Culture of North Korea”. Every Culture. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
10. ^ “CIA The World Factbook — North Korea”. Cia.gov. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
11. ^ “International Religious Freedom Report 2008 - Korea, Republic of”. State.gov. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
12. ^ “The Korea Times:Islam takes root and blooms”. Islamawareness.net. Ngày 22 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2009.
13. ^ [1]


Tham khảo

• Cumings, Bruce. Korea's Place in the Sun, Norton, 1997. ISBN 0-393-31681-5
• Kim, et al. Women of Korea: A History from Ancient Times to 1945, Ewha Womans University Press, 1976. ISBN 89-7300-116-7.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những người bạn

 
Support : Creating Website | SkyskyskyTemplate | DoThanh Template
Proudly powered by Blogger
Copyright © 2011. Những người bạn của Sky+ - All Rights Reserved
Template Design by Creating Website Published by SkyDoThanh Template