Vì sao Giáng sinh phổ biến khắp thế giới?
Thân tặng các bạn K72_The Good, The Bad and The Ugly The Ukulele Orchestra of Great Britain
Điều gì khiến cho một lễ hội thuần tôn giáo và “Tây” như Giáng sinh lại rất được hưởng ứng ở một nước như Việt Nam?
Sẽ có người cho rằng dân Việt Nam sính ngoại, ăn theo phong trào, thiếu bản sắc. Lập luận này thật sự chưa thuyết phục lắm, vì người ưa thích ngày lễ Giáng sinh có mặt đông đảo trên khắp thế giới – với mọi thành phần dân tộc, màu da, giới tính, v.v. Hiện tượng này không chỉ có ở Việt Nam. Chẳng lẽ chúng ta cho rằng cả thế giới mất bản sắc?
Cũng có người cho rằng đây là kết quả của hội nhập, là chuyện thường tình của quá trình toàn cầu hóa. Cách tiếp cận cởi mở này lại không giải thích được tại sao Giáng sinh lại phổ biến hơn nhiều so với nhiều ngày lễ lớn của các tôn giáo khác. Ramadan của Hồi giáo hay Phật Đản của Phật giáo đều là những ngày lễ tôn giáo lớn rất quan trọng và rất thiêng liêng, được nhiều người biết đến trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay. Nhưng vì sao những ngày lễ này lại không phổ biến như Giáng sinh?
Hiểu sơ lược một chút về Giáng sinh, chúng ta cần biết rằng người Công giáo bắt đầu chuẩn bị cho Giáng sinh trong vòng bốn tuần liền trước đêm Giáng sinh chính thức (mà chủ yếu là bốn ngày Chúa nhật tương ứng) – được gọi là Mùa Vọng (Advent). Đây là thời điểm mà người Công giáo chuẩn bị, cầu nguyện, và gột rửa tâm hồn mình (purify) để chào Chúa giáng trần.
Trong khi đó, người ngoại đạo thì chuẩn bị quà bánh cho người thân, và nếu có thể, một buổi ăn chiều họp mặt gia đình. Tư duy ấy từ đâu ra? Các nhà khoa học xã hội – chính trị – pháp lý có câu trả lời cho hiện tượng kỳ lạ này, và gọi đó là quá trình thế tục hóa (secularization) của Giáng sinh.
Từ ban thờ tới văn hoá đại chúng
Ai tìm hiểu sơ qua lịch sử Trung đại của phương Tây đều nhận ra chính trị tại các quốc gia thời kỳ này là quá trình tranh giành quyền lực giữa hai thế lực, một bên là chính quyền quân chủ thế tục, các nhóm học giả, các nhà tư tưởng – khoa học, với một bên là cơ quan đại diện thần quyền – Giáo hội.
Sự kèn cựa lẫn nhau giữa hai thế lực chính trị tạo nên sự lộn xộn bất ổn đặc trưng của các chính quyền Châu Âu Trung đại, nhưng nó cũng biến tôn giáo trở thành một đề tài không nhạy cảm cho lắm trong giới học thuật và các tác gia.
Kỷ Phục Hưng (Renaissance – bắt đầu từ khoảng thế kỷ 14 sau Công Nguyên), thường được xem là giai đoạn làn sóng chủ nghĩa nhân đạo – nhân văn dân sự lan tỏa. Đó là thời kỳ mà mà các học giả nói chung, dù thuộc tôn giáo hay không tôn giáo, nhận ra giá trị của con người, nhận ra quá trình tự khai sáng và nhận thức được tầm quan trọng của các nhu cầu cá nhân. Từ đó, họ tạo nên một môi trường sinh động cho các hoạt động văn hóa – khoa học – nghệ thuật.
Tuy nhiên, dù là giai đoạn tái sinh lại các giá trị, tầm nhìn, tư tưởng, phong cách và văn học – nghệ thuật của Hy Lạp – La Mã cổ điển, các tác giả danh tiếng nhất của Kỷ Phục Hưng phần lớn lấy nguồn cảm hứng của mình từ điển tích và nhân vật Công giáo (với hầu hết các tác phẩm nổi tiếng nhất thời kỳ này đều gắn liền với hình ảnh Thiên chúa). Chúng một phần tấn công các giá trị tôn giáo có tổ chức đã được Giáo hội thiết lập, song các giá trị Công giáo, nhờ đó, cũng trở nên gần gũi hơn, nhân văn – nhân bản hơn, và mang tính văn hóa nhiều hơn đối với xã hội phương Tây.
Kỷ Phục Hưng do vậy đánh dấu một dấu mốc lịch sử cực kỳ quan trọng cho hàng loạt cải cách tôn giáo của các nhánh Công giáo như: Giáo hội Thánh La Mã (Roman Catholic Church), Kháng cách giáo (Protestant) hay Thanh giáo (Puriant). Và tác phẩm Christmas Carol lừng danh của tác giả Charles Dickens đã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc cải cách đó.
Christmas Carol do ca sĩ Hilcrhyme thể hiện, thuộc thể loại Nhạc Nhật.
Tác phẩm này mô tả những buổi lễ thường được tổ chức ở Nhà thờ, chú trọng vào sự tu niệm cá nhân và lễ nghi. Đột nhiên, quan hệ tôn giáo chuyển trọng tâm sang nói về gia đình, tình thương, buổi tối Giáng sinh sum họp và hiển nhiên là các hoạt động thiện nguyện trong mùa lễ. Theo nghiên cứu của giáo sư, sử gia ẩm thực và đầu bếp trưởng Cathy Kaufman, các bữa ăn sum họp gia đình mùa Giáng sinh mà chúng ta thường thấy trong phim ảnh Mỹ (mà thật ra cũng là phong tục tiêu chuẩn của người Mỹ, Châu Âu hiện nay), với gà tây nhồi, thật ra là nhại lại bữa ăn của nhà Cratchit được mô tả trong quyển sách này.
Tại thời điểm mà tác phẩm Christmas Carol ra đời, Giáng sinh là sự đối lập giữa cộng đồng tôn giáo khép kín, mê tín (đôi khi được cho là như thế) và những cuộc chè chén ăn mừng lộn xộn, nhếch nhác, thiếu văn minh. Cả hai vốn được xem là điều không hề phù hợp với xã hội công nghiệp hiện đại. Vậy nên với Christmas Carol, nhiều học giả đến nay vẫn tin rằng chính Dickens đã thay một bộ mặt khác cho lễ Giáng sinh, khiến nó thân hiện hơn, nhẹ nhàng hơn và hướng nội hơn. Đây cũng là phiên bản Giáng sinh nổi tiếng khắp thế giới qua các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật phương Tây.
Không chỉ vậy, Kỷ Phục Hưng còn bảo vệ và phát huy hình ảnh của nhân vật quan trọng nhất đêm Giáng sinh, người khiến cho trẻ em khắp thế giới chết mê chết mệt với Giáng sinh – ông già Noel.
Truyền thuyết về ông già Noel (hay Santa Claus) bắt đầu với St. Nicholas (Thánh Nicholas) – nhà tu hành nổi tiếng với lòng vị tha và sự tốt bụng. Ông được biết đến như là người bảo hộ cho trẻ em và những kẻ yếu đuối. Ngày mất của ông, ngày 6 tháng 12 hằng năm, được nhiều người phương Tây cho là ngày may mắn để cưới hỏi hay mua sắm lớn. Trong Kỷ Phục Hưng, Thánh Nicolas là vị thánh nổi tiếng nhất Châu Âu. Ngay cả sau cuộc cải cách Kháng Cách giáo (Protestant Reformation), khi mà hình ảnh của các vị thánh dần bị ruồng bỏ vì nhiều vấn đề chính trị liên quan đến quản lý Giáo hội, Thánh Nicolas tiếp tục được ưa thích vì tính nhân văn – thế tục – hành đạo của ông.
Vào thập niên 20 của thế kỷ 19, sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học, nhu cầu thương mại và mua sắm Giáng sinh của người dân Hoa Kỳ dần được nhiều nhà tư bản nắm bắt. Và Santa Claus (đọc trại từ Sinter Klaas – tức Saint Nicolas trong tiếng Hà Lan) chính thức biến thành ‘đại diện thân thiện’ hiệu quả nhất của Giáng sinh.
Giáng sinh và chính trị – pháp luật Hoa Kỳ
Quá trình thế tục hóa Giáng sinh không chỉ xảy ra trong hoạt động văn hóa, văn học và nghệ thuật, các yếu tố chính trị và pháp luật của Hoa Kỳ cũng giúp Giáng sinh trở nên phổ biến.
Vào thập niên 1980, cơ quan công quyền Hoa Kỳ có thiện cảm với Giáng sinh với tư cách là một sản phẩm tôn giáo mang hơi hướng văn hóa. Trong án lệ Florey v. Sioux Falls School District, bên nguyên đơn khởi kiện một trường công lập vì cho rằng các chương trình mừng lễ Giáng sinh có bao gồm các bài hát tôn giáo và biểu tượng tôn giáo là vi phạm Tu chính án thứ Nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ.
Đối với trường hợp này, tòa án Hoa Kỳ lần đầu tiên đưa ra các nguyên tắc pháp lý thế tục hóa lễ Giáng sinh, cho rằng: ‘Vì nhạc Giáng sinh có chứa ngôn ngữ tôn giáo đã trở thành một phần của văn hóa chúng ta, Tòa không thể khẳng định rằng việc sử dụng các bài hát Giáng sinh này đương nhiên bị xem xét là một hành động ủng hộ tôn giáo. Tác động cơ bản của hoạt động chào mừng rõ ràng không nhằm cổ xuý cho một tôn giáo nhất định.’
Đây là một trong những lập luận pháp lý đầu tiên dần thế tục hóa Giáng sinh, loại bỏ dần tính tôn giáo của ngày lễ và biến nó trở thành một ngày hội chung, đại đồng.
Rõ ràng quá trình thế tục hóa ngày lễ Giáng sinh đã và vẫn đang tiếp diễn khiến ngày lễ này nhận được nhiều tình cảm của người dân trên khắp thế giới. Ngược lại, những nguyên tắc tôn giáo càng hà khắc, càng nguyên thủy (ví dụ như các quy định cấm nạo phá thai, cấm ra đường mà không che hết thân người, cấm đi chơi riêng với đàn ông…) thì rất khó có chỗ đứng trong lòng xã hội hiện đại.
Ngày sinh của Chúa Giê-su qua nhiều lăng kính
“Giê-su là hình mẫu của một vị có đức tin cao cả, một con người tử tế cùng một trái tim nhân ái” – Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tranh vẽ "Các mục đồng đến chúc tụng hài nhi Giê-su của danh họa Tây Ban Nha - Bartolomé Esteban Murillo. Ảnh: Wikicommons.
Những tranh cãi về ngày sinh thật sự của Chúa Giê-su giữa các nhà thần học và các sử gia dường như luôn tồn tại và tiếp diễn. Tuy thế, hơn một tỉ tín đồ Công giáo vẫn hân hoan đón chào ngày sinh của đấng mà họ xem là vì cứu chuộc thế gian mà đến, vào nửa đêm 24 tháng 12 hằng năm.
Tranh vẽ Chúa Giê-su qua các thời kỳ. Ảnh: National Geographic
Cuộc đời của Chúa Giê-su và thông điệp kêu gọi con người hãy biết tha thứ cho nhau, yêu thương nhau không chỉ được truyền tụng trong 2.000 năm qua giữa những người Kitô hữu (Christians), mà đó còn là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà đấu tranh nhân quyền trên thế giới. Mục sư Martin Luther King, Jr. hay Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đã từng trích dẫn và ngợi ca Chúa Giê-su trong công cuộc đấu tranh của riêng họ.
Cây thông, và cảnh dựng lại máng cỏ hang lừa Bethlehem nơi Chúa Giê-su chào đời trước thánh đường St. Peter’s Basilica, Rome. Ảnh: ABC News.
Một hài nhi của một gia đình Do Thái nghèo khó ở vùng Galilee, cha mẹ vì bị truy đuổi bởi chính quyền La Mã dưới thời Vua Herod nên đã lưu lạc đến Bethlehem để rồi phải sinh con trong máng cỏ hang lừa. Đó là lời dẫn mở đầu cho câu chuyện mang đến niềm tin vào sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho hàng tỉ người trong hai thiên niên kỷ qua.
Tranh vẽ “Thiên thần Gabriel báo tin cho Đức Mẹ Maria” (L’Annonciation) của danh họa Philippe de Champagne (1644). Ảnh: Wiki Commons.
Theo Phúc Âm của Thánh Luca (Saint Luke), thiên thần Gabriel mang tin mừng đến với Đức Mẹ Maria, là bà sẽ thụ thai con của Chúa Trời.
Và khi Chúa Giê-su chào đời tại máng cỏ, trong hang đá ở Bethlehem vào lúc nửa đêm, thiên thần Gabriel lại xuất hiện và hát vang: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”.
Tranh vẽ “Các mục đồng đến chúc tụng hài nhi Giê-su” (Adoration of the Shepards) của danh họa Tây Ban Nha – Bartolomé Esteban Murillo. Ảnh: Wikicommons.
Ở nơi xa xôi, hẻo lánh như hang đá ở Bethlehem năm ấy, vốn chỉ có các mục đồng – là những người chăn súc vật trong vùng – sống quanh. Và vì vậy, cũng chỉ có họ là những người đầu tiên đến đón mừng hài nhi Giê-su.
Cũng theo Phúc Âm, những mục đồng ấy đã nhận được quà tặng từ Thiên Chúa là sự tỉnh thức, tính khiêm nhường, đức tin, sự vâng lời và khó nghèo. Và đó cũng là những phẩm giá hàng đầu cho một người Kitô hữu (Christian) về sau này.
Tranh vẽ “Ba nhà Thông thái đến tặng quà cho hài nhi Giê-su” (Adoration of the Magi) của danh họa Hà Lan Rembrandt (1632).
Tin mừng của Thánh Mathew kể thêm, không chỉ những mục đồng mà còn có ba nhà thông thái (magis) từ phương Đông đã theo ánh sáng của vì sao mà tìm đến để tặng quà cho hài nhi Giê-su.
Từ thế kỷ 15, Tin mừng của Thánh Luca và Mathew thường được gộp chung trong các tranh vẽ. Nên câu chuyện minh hoạ về ngày Giê-su giáng sinh thông thường sẽ có hình ảnh của cả mục đồng lẫn các nhà thông thái đến chúc tụng. Đây cũng là một phần lý do người ta thường dùng để giải thích tập tục tặng quà cho nhau ngày Giáng sinh.
Ảnh: Ngôi sao bạc tượng trưng cho nơi được tin là Chúa Giê-su đã sinh ra, tại nhà thờ Church of Nativity ở Bethlehem. Ảnh: Encircle.
Có lẽ, vì hình ảnh của Chúa Giê-su trong Kinh Thánh và sách Phúc Âm do các Thánh tông đồ ghi chép về sau đều rất gần gũi với người nghèo – tức là đa số bình dân bá tánh ở bất kỳ đâu – nên họ luôn dễ dàng nhận thức được và tìm thấy niềm tin vào những gì Giê-su dạy.
Đó là, tất cả những oan ức, nhọc nhằn và đau khổ ở thế gian đều sẽ được đền bù đầy đủ cho những ai sống và làm theo lời Chúa: Yêu mến tha nhân, tha thứ cho kẻ thù, và giúp đỡ lẫn nhau truyền bá Tin mừng.
Giáo đồ Chính thống giáo Ethiopia mừng lễ Giáng sinh trong đầu tháng Giêng. Ảnh: Getty images.
Tuy nhiên, cuộc đời của Chúa Giê-su là một đề tài gây tranh cãi ngay cả ở giữa các tôn giáo của người Kitô hữu, chứ không hẳn chỉ là từ những người ngoại đạo.
Hiện nay, đối với các tôn giáo bắt nguồn từ công cuộc truyền đạo của Chúa Giê-su, thì việc tranh cãi thường xoay quanh các ghi chép về Giê-su và vị trí của ngài trong đức tin, chứ không hề phủ định hoàn toàn cuộc đời Giê-su trong lịch sử.
Khung cảnh ăn mừng Giáng sinh ở Bethlehem ngày nay. Ảnh: Israel Today.
Một ví dụ điển hình là việc ăn mừng ngày Chúa Giê-su ra đời được cử hành ở những ngày khác nhau bởi các tôn giáo, thậm chí là ngay tại vùng đất thánh Bethlehem. Người Công giáo La Mã và Kháng cách giáo (Protestants) ăn mừng vào ngày 25 tháng 12. Người Chính thống giáo (Orthodox Christians) ăn mừng vào ngày 7 tháng Giêng, và người Armenians thì vào ngày 6 tháng Giêng (hoặc ngày 18 tháng Giêng nếu họ ở trên Đất Thánh – Holy Land).
Các linh mục trước nhà thờ Nativity ở Bethlehem trong ngày Giáng sinh năm 2015. Ảnh: israel21c.org.
Nhà thờ Nativity (Church of Nativity) ở Bethlehem vẫn là một trong những thánh địa mà người tin vào Giê-su, bất kể là thuộc Công giáo La Mã hay Công giáo Chính thống, đều đến hành hương vô cùng tấp nập hằng năm.
Nhà thờ này được xây dựng vào những năm 330 sau Công nguyên, khi Hoàng đế Constantine của La Mã cải đạo và trở thành Hoàng đế theo đạo Công giáo đầu tiên trong lịch sử.
Một món trang sức tuyên xưng đức tin về Chúa Giê-su và Đức Mẹ Maria của Thượng phụ Theophilos III – người đứng đầu Chính thống giáo Hy lạp toàn vùng Jerusalem và Palestine hiện thời. Ảnh: National Geographic.
Còn đối với những ai không theo đạo, thì các câu chuyện mang đầy tính thần thánh hóa trong Tin mừng về Chúa Giê-su đã ra đời như thế nào, cũng như những phép lạ được lưu truyền về Giê-su – như chữa lành mắt cho người mù, hay khiến kẻ chết sống lại – càng làm tăng hoài nghi về sự hiện hữu của Giê-su trong lịch sử.
Di tích về hồ Bethesda – nơi được ghi chép trong Phúc Âm của Thánh Gioan (Saint John) là Chúa Giê-su đã chữa khỏi cho một bệnh nhân bị liệt. Ảnh: National Geographic
Thế nhưng, theo giáo sư Khảo cổ học và Do Thái học – Eric Meyers – của Đại học Duke, tuy có rất nhiều tranh cãi xung quanh các dữ liệu về cuộc đời của Giê-su, nhưng không có “bất kỳ học giả nào thực sự nghi ngờ Giê-su không phải là một nhân vật lịch sử”.
Dấu tích lăng mộ Chúa Giê-su ở Nhà thờ Holy Sepulchre tại Jerusalem. Ảnh: Chụp màn hình từ video clip của National Geographic.
Giáo sư Byron McCane của Đại học Florida Atlantic cũng cho rằng, những nghi ngờ về các phép màu của Chúa Giê-su không đủ làm lý do để kết luận Giê-su chỉ là nhân vật thần thoại và chưa bao giờ thật sự xuất hiện.
Một số kết luận từ các cuộc khảo cổ gần đây đã giúp chứng minh phần nào yếu tố lịch sử trong cuộc đời Chúa Giê-su theo những ghi chép trong sách Phúc Âm.
Biển hồ Galilee, nơi Phúc Âm ghi chép Chúa Giê-su đã làm phép lạ chặn đứng cơn bão và đi trên nước. Ảnh: Getty images.
Nếu như ở Bethlehem, việc tìm kiếm các dấu vết lịch sử về một Giê-su có vẻ gặp khó khăn, thì công việc đó có thể trở nên dễ dàng hơn tại vùng Galilee – nơi mà Phúc Âm đã ghi lại về một Giê-su của thành Nazareth.
Từ một người con trong một gia đình nông dân bần hàn ở thành Nazareth vùng Galilee, vào năm 30 tuổi, anh thợ mộc Giê-su đã nhận bí tích rửa tội từ Thánh Gioan Tẩy rửa (John the Baptist) tại bờ sông Jordan là nơi nối với Biển hồ Galilee (Sea of Galilee).
Một trong những tàn tích ở Capernaum cho thấy một ngôi đền có thể đã từng được Chúa Giê-su ghé qua. Gần đó là di tích vừa được các nhà khảo cổ tìm được và cho là nhà của một trong những vị thánh tông đồ đầu tiên, Thánh Peter.
Theo Phúc Âm, chính sau khi nhận được phép rửa thì công cuộc truyền giáo của Chúa Giê-su mới được xem là bắt đầu. Làng đánh cá Capernaum gần Biển hồ Galilee là nơi mà Giê-su đã thu nhận những môn đệ đầu tiên, là hai Thánh Peter và Andrew.
Tàn tích Herodium – một trong những pháo đài kiên cố tượng trưng cho sự áp bức của người La Mã lên người Do Thái thời vua Herod, người đã cai trị dân Do Thái trong thời gian Giê-su được xem là đã tồn tại. Ảnh: National Geographic.
Cuộc đời, sự nghiệp và cái chết của Chúa Giê-su vốn là một câu chuyện được kể về một người đàn ông sinh ra, lớn lên rồi chết đi trong khiêm nhường.
Giê-su của thành Nazareth, người xứ Galilee, đã trưởng thành trong một cộng đồng bị nô lệ và áp bức hàng nghìn năm. Ngài lớn lên cùng với những người nghèo khổ, bần cùng của đáy xã hội. Vì không chấp nhận những điều bất công, mà ngài đã đứng lên, đi từ Galilee đến Jerusalem để kêu gọi chống lại chúng, và phải trả giá bằng mạng sống của mình.
Tàn tích từ một đền thờ của người Do thái cổ đại vừa được khai quật tại thành phố Magdalene – nơi mà trong Kinh Thánh đã viết, Chúa Giê-su đã từng ghé qua. Ảnh: National Geographic.
Vậy nên, giữa vô vàn những tranh cãi về cuộc đời và sự nghiệp của Chúa Giê-su, có một số học giả mạnh dạn cho rằng, hãy bỏ qua các yếu tố thần thánh hóa và tôn giáo để nhìn nhận Giê-su như là một người dám đấu tranh cho thay đổi xã hội – và thậm chí là thay đổi cả chế độ – có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử.
Di tích được xem là Vườn Cây dầu (Gethsemani) ở Jerusalem, nơi Chúa Giê-su cầu nguyện đêm cuối cùng trước khi bị người La Ma bắt. Ảnh: National Geographic.
Ngay trong Phúc Âm cũng kể lại phần rất con người của Chúa Giê-su. Ngài đã nếm trải nỗi sợ hãi tột cùng lúc đối diện một cái chết bi thảm được dự báo trước trong đêm cầu nguyện ở Vườn Cây dầu (Gethsemani), (ở ngoại ô Jerusalem ngày nay) cũng như chấp nhận giây phút chạm tận đáy của sự tuyệt vọng khi chịu nạn trên thập giá.
Hang đá do người tị nạn Việt Nam dựng ở Trại 2 – Dangrek ở biên giới Việt-Cambodia trong một mùa Noel thập niên 1980. Ảnh: Trinh Huy Chuong.
Nhưng cũng chính cái chết đầy thống khổ, kết thúc một cuộc đời nghèo khó và khiêm nhường của Chúa Giê-su lại truyền cảm hứng cho nhân loại mãi đến tận hàng nghìn năm sau, để vẫn luôn có người vì tin vào lời dạy của Ngài mà đứng lên chống lại bất công.
Như Đức Đạt Lai Lạt Ma từng nói: “Giê-su là hình mẫu của một vị có đức tin cao cả, một con người tử tế cùng một trái tim nhân ái”.
Tài liệu tham khảo:
What Archeology Is Telling Us About The Real Jesus.
Jesus Through Buddhist Eyes
What We Know About When Jesus Was Actually Born
Bible History Online
The Reality of Jesus Christ
Theo Int
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Những người bạn