Đỗ Xuân Thạnh_Skyskysky :

Thứ Năm, 30 tháng 11, 2017

Nói nghiêm túc về chuyện cải cách chữ viết



PGS.TS Đào Duy Hiệp.
Nói nghiêm túc về chuyện cải cách chữ viết

Không thể đem ví chuyện điên rồ cải cách toàn bộ chữ viết của ông Bùi Hiền với việc phát hiện ra thuyết nhật tâm, các thiên thể, trong đó có quả đất tròn quay quanh mặt trời để bênh vực được!

Với một vài lý do "cấp tiến" là: Nghe làm gì "cái đám quần chúng không hiểu gì cả"; nên tôn trọng mọi phát kiến khoa học; cần phải có một Hội đồng khoa học mới có quyền thẩm định được (xin thưa: Nhiều nhà khoa học thực thụ đã lên tiếng phản bác); mọi người ngại đổi thay, lười suy nghĩ; rồi ban phát tình thương cải lương, mị dân về tình nhân ái;...

Tôi không biết cá nhân ông Bùi Hiền cho đến khi "phát minh" của ông xuất hiện. Theo đó, sự giễu nhại của tôi không nhằm vào cá nhân ông, mà vào sự lọ mọ phát minh phi lý quá mức của ông.

Khi khoa học chưa phát triển, thì việc phát minh ra quả đất tròn là vĩ đại và theo thời gian loài người nhận ra đó là chân lý dù lúc đầu bị rủa xả. Từ chỗ chưa biết, chưa hiểu, họ đã hiểu và đã biết. Nhưng ông Bùi Hiền đã làm ngược lại, lấy xuất phát điểm nghiên cứu khoa học từ chỗ đã biết, đã hiểu, để tiến tới làm người ta không hiểu, không biết! Hoặc có biết có hiểu rồi thì lại như một trò chơi nghịch ngợm của tuổi teen, rối mù rối mịt!

Ngày nay, khi chữ viết đã là quy ước bằng văn bản pháp chế, được ổn định trong mọi tầng lớp xã hội, mọi ngành nghề, được sử dụng từ hàng trăm năm nay, mà lại đòi thay đổi triệt để thì có khác gì ông Bùi Hiền bảo quả đất ngừng quay.

Đọc một bài viết, viết một văn bản bằng chữ Quốc ngữ hiện hành, với những người biết chữ, dễ dàng và tự nhiên như việc hít thở. Khi ông Bùi Hiền (luôn được nhấn mạnh là PGS.TS, cựu Hiệu phó trường Ngoại ngữ), lại mưu toan điên rồ làm cái việc bóp ngạt mũi, làm ngừng việc thở tự nhiên của toàn dân (tuy mới chỉ dừng ở mức đề xuất), thì cơn thịnh nộ của mọi người là có lý! Càng có lý hơn khi ông có mác mỏ đầy mình.

Ngày xưa, khi phát minh ra quả đất quay, tôi không rõ dân chúng bên Tây có băn khoăn siêu hình không, rằng: Trái đất quay sao các ông không bị ngã?! Nhưng ngày nay, tôi nghĩ: Tác giả cải cách chữ viết đã bị ngã! Nên nhớ: Ngôn ngữ (tiếng nói) là ngàn đời, còn chữ viết có thể thay đổi. Nhưng không thể vin vào đó để thay đổi triệt để được. Không ai và không có quyền uy nào làm được điều đó. (Ngay việc thay đổi có tính chất bộ phận như chữ "i" ngắn với "y" dài, đã thống nhất được tất cả đâu).

Thầy Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) và một vài người khác cùng thầy dạo thế kỷ 17 có thể tạo được ra Quốc ngữ của chúng ta ngày nay (tất nhiên ban đầu còn nhiều ngọng nghịu, sai sót), theo tôi nghĩ, là vì: Dân số nước ta lúc đó còn quá ít (bạn nào có con số cụ thể xin giúp cho); dân trí, người đi học còn quá thưa thớt, nên khi những người được cắp sách đến trường là tiếp thu luôn thứ chữ đó. (Nói dân số nước ta thế kỷ 17 còn quá ít, bởi tôi còn nhớ, quãng giữa những năm 60, câu khẩu hiệu luôn văng vẳng bên tai: "31 triệu đồng bào đua sức. 17 triệu đồng bào miền Bắc thi đua với 14 triệu đồng bào miền Nam",... Đến giữa thế kỷ 20 còn thế, thì lùi vào quá khứ đến 3 thế kỷ, chắc còn ít hơn nhiều).

Có người thấy chán chuyện cải cách chữ viết lẩm cẩm này, tuyên bố là nói một lần và chấm dứt, thì đi một nhẽ; nhưng nếu đòi hỏi mọi người không được bàn tới, là không được! Động chạm đến chữ viết, quốc hồn của toàn dân, đến quán tính tư duy, soạn thảo, cùng với bao nhiêu hệ lụy kéo theo nó, sao lại bịt mồm bịt miệng người ta được! Nên nhớ, Bakhtine nói: Giễu nhại là tiếng cười khỏe khoắn của dân gian, mang tính toàn dân, nó khai tử mọi thứ giáo điều, già nua, lụ khụ. Nó chôn vùi và tái sinh. Tiếng cười giễu nhại, là tiếng nói của tinh thần dân chủ.

PGS.TS Đào Duy Hiệp


Cải tiến chữ viết tiếng Việt: "Đề xuất của PGS.TS Bùi Hiền chưa thuyết phục"

Đó là nhận định của TS. Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên dạy môn Ngữ văn tại trường THPT Chu Văn An (Hà Nội) về đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt của PGS.TS Bùi Hiền.

heo TS. Trịnh Thu Tuyết, nếu nhìn nhận nghiêm túc thì tiếng Việt có rất nhiều điều bất hợp lý cả trăm năm nay. Sự bất hợp lý đó được hợp lý hoá bằng những ước lệ mang tính mặc định trong cộng đồng sử dụng ngôn ngữ Việt, ví dụ các chữ cái c/k/q, gi/r/d hay ng/ngh...

“Những mặc định đó tồn tại lâu dần thành thói quen, từ thói quen thành chuẩn mực chính tả phổ thông... Đó cũng là điều khó khăn khi người nước ngoài học tiếng Việt, họ không thể giải thích bằng cơ sở khoa học mang tính logic mà chỉ chấp nhận như một quy ước mặc định. Ví dụ, nhiều học viên thắc mắc về cách viết và cách đọc chữ "gì" chẳng hạn”, TS. Tuyết nói.

Cũng theo TS. Tuyết, ngôn ngữ giống như xã hội luôn vận động để thay đổi với thời gian. Những điểm bất hợp lý luôn tiềm tàng nhu cầu thay đổi để tiến tới xoá bỏ nó, dần mang tới tính khoa học, thẩm mỹ cho tiếng Việt. “Sự thay đổi thói quen đã hình thành hàng trăm năm là điều cực kỳ khó khăn, khó từ phương án thay đổi tới vấn đề giải quyết những hệ lụy cũ trong các văn bản hàng trăm năm nay, đặc biệt là khó khăn trong tâm thế tiếp nhận của cộng đồng", TS. Tuyết cho hay.

Khi được hỏi về việc, liệu rằng đề xuất của PGS.TS Bùi Hiền có khả thi, nữ TS nhận định: “Phương án do PGS.TS Bùi Hiền đề xuất có quá nhiều sự thay đổi, chưa thuyết phục được người sử dụng tiếng Việt, cũng là chủ nhân đích thực của tài sản tinh thần qúy giá của cộng đồng, gây phản ứng là dễ hiểu”.


TS. Trịnh Thu Tuyết.

"Tiếng nói có trước, chữ viết có sau để ghi âm tiếng nói. Vậy chữ phải thể hiện được đầy đủ các sắc độ tinh tế của tiếng nói. Không thể xoá nhoà và đồng nhất các sắc độ ấy, thay đổi chính âm, buộc người sử dụng ngôn ngữ chạy theo chính tả khi đồng nhất x/s; ch/tr; r/d... Sự thay đổi theo phương án này cũng liên quan tới việc thiết lập lại hệ thống ký tự và dấu tiếng Việt trên máy tính; đặc biệt làm phương hại khá nhiều tính thẩm mỹ của chính tả tiếng Việt”, bà nói.

Liên quan đến đề xuất này, tác giả - PGS.TS Bùi Hiền cho biết, ông sẽ hoàn thiện và công bố công trình vào đầu năm 2018. “Tôi đã 83 tuổi, không biết có đủ sức để theo đề tài của mình đến đâu. Nhưng tôi sẽ quyết tâm làm nó khi còn có thể. Dự định của tôi là sẽ trình bày phần còn lại của công trình về nguyên âm vào tháng 3/2018 tại một hội nghị ngôn ngữ”, ông nói.

Ông cũng khẳng định, thời điểm tháng 3/2018 nếu không thể thực hiện thì sẽ kiên quyết làm đến khi có thể thuyết phục được đa số.


TS Hà Thanh Vân: 'Muốn dùng một hệ chữ viết hoàn toàn mới, ngay lập tức là khó khả thi'


TS Hà Thanh Vân và PGS-TS Bùi Hiền - Ảnh ghép T.V

“Tôi nghĩ, ông Hiền không phải là người điên, chỉ là ông đưa ra một đề án nghiên cứu không thành công”– Đó là ý kiến của TS Hà Thanh Vân về những đề xuất cải tiến tiếng Việt gây xôn xao trong dư luận trong thời gian gần đây.

Đề xuất cải cách tiếng Việt của PGS-TS Bùi Hiền đã gây tranh cãi dữ dội trong suốt tuần vừa qua với nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Để có góc nhìn đa chiều hơn về vấn đề này, phóng viên báo điện tử Một Thế Giới đã có cuộc trao đổi với tiến sĩ Hà Thanh Vân. Và sau đây là nội dung của cuộc trò chuyện này:


TS Hà Thanh Vân - Ảnh: T.V

Là tiến sĩ nghiên cứu về lịch sử văn học, ngôn ngữ, chị có quan tâm đến đề xuất cải cách tiếng Việt của PGS-TS Bùi Hiền đang gây tranh xôn xao trong dư luận?

- Mấy hôm nay trên các phương tiện truyền thông đại chúng và trên Facebook nhộn nhịp những lời bàn cãi xung quanh chuyện đề nghị cải cách chữ viết của PGS.TS. Bùi Hiền. Tất nhiên tuyệt đại đa số các ý kiến đều phản đối và rất nhiều ý kiến mạt sát thậm tệ, coi ông là người điên.

Nhiều sinh viên ngành ngữ văn cũng đã hỏi tôi về vấn đề này. Tôi không nghĩ là sẽ nói về chuyện này vì đây là chuyện khoa học và là về ngôn ngữ học, một chuyên ngành tôi không am hiểu nhiều lắm. Song vì câu hỏi này của quý báo nên tôi xin mạo muội nói mấy lời.

Trước hết chữ quốc ngữ đã trải qua một quá trình phát triển dài, với nhiều thay đổi về hình thức, cho đến đầu thế kỷ XX mới hình thành chữ viết và cách viết như bộ mặt hiện tại. Từ thời của các giáo sĩ Francisco De Pina, Alexandre De Rhodes cho đến nay, hình thức chữ viết đến nay đã có sự khác biệt (ví dụ trong cuốn “Phép giảng tám ngày” của Alexandre De Rhodes, “quân tử” được ghi là “cuên tử”, “Chúa Trời được ghi là “Chúa Blời”. Quá trình thay đổi ấy phải trải qua sự điều chỉnh hàng trăm năm.

Ngôn ngữ sống với đời sống, thay đổi dần dần theo đời sống, bây giờ nếu muốn dùng một hệ chữ viết hoàn toàn mới, ngay lập tức e là khó khả thi.

Xem video:


Theo chị, nếu đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền được thực hiện thì sẽ dẫn đến những kết quả như thế nào?

- Giả sử ý kiến của ông Hiền được chấp nhận, nhà nước sẽ bỏ ra một số tiền khổng lồ để in ấn lại sách vở, văn bản. Google đang chuyển ngữ cũng phải viết lại code. Phải mở những lớp dạy cho người ta biết cách viết mới. Máy vi tính với bàn phím và các chương trình tiếng Việt cũng phải viết lại. Bản thân những người nước ngoài đã và đang học tiếng Việt cũng coi như phải học lại từ đầu. Chưa kể các thế hệ sau cũng phải được dạy cách tra từ điển để đọc các văn bản cũ… Nói chung là tiêu tốn một số tiền kinh khủng và công sức của toàn dân. Chỉ riêng điều này đã thấy đề xuất của ông Hiền là không khả thi. Đó là chưa kể về mặt tâm lý, với trẻ con chưa đi học thì dễ, song với người đã trưởng thành thì họ rất khó chấp nhận một cách viết xa lạ với mình so với cách viết đã quen thuộc với họ đã hàng chục năm nay.


PGS-TS Bùi Hiền-người đề xuất cải cách tiếng Việt gây tranh cãi - Ảnh: Internet

Bản thân PGS Bùi Hiền cho rằng nghiên cứu này sẽ giúp… tiết kiệm được rất nhiều vật tư. Chị hiểu sao về sự “tiết kiệm” này?

- Ông Hiền bảo rằng đây là một phần của một công trình nghiên cứu đã hàng mấy chục năm và ông kỳ vọng nhiều vào nó, sẽ không lùi bước vì nó mang lại những lợi ích đáng kể như tiết kiệm 8% vật tư. Nhưng nói vậy thật là hài hước nếu so với sự xáo trộn khổng lồ về mặt tâm lý, tư duy và tiền bạc, nếu đề án nghiên cứu của ông được áp dụng vào thực tế.

Cũng có người bênh ông Hiền, cho rằng ngày xưa khi tiếp xúc với chữ quốc ngữ, cha ông ta cũng choáng như vậy. Thật ra hai vấn đề khác nhau hoàn toàn. Ngày xưa thời phong kiến, không có mấy người biết chữ Hán, chữ Nôm, chỉ có tầng lớp quan lại, nhà nho mới biết, nên khi chữ quốc ngữ ra đời, dễ dàng thâm nhập vào đời sống nhân dân. Việc học chữ quốc ngữ với nhiều người không phải là học để thay thế như kiểu đề xuất thay thế của ông Hiền mà là học để biết thêm. Thực tế là chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ vẫn song song tồn tại đến đầu thế kỷ XX.


Đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền được ông khẳng định là tiết kiệm 8% vật tư - Ảnh: T.V

Có nhiều ý kiến khác nhau về công trình nghiên cứu của PGS Bùi Hiền, thậm chí có người nói rằng ông ấy “thần kinh”, “điên rồ”… Theo chị thì những ý kiến đó có thái quá không?

- Tôi vẫn khẳng định ông Bùi Hiền là một nhà khoa học. Là một nhà khoa học, ông Hiền có quyền nghiên cứu, có quyền đề xuất nọ kia. Đó là quyền của một nhà khoa học trên bước đường nghiên cứu của mình. Hơn nữa nghiên cứu của ông Hiền là một nghiên cứu chưa hoàn chỉnh theo như chính ông nói, mới chỉ là một phần của một công trình nghiên cứu. Ông có lẽ hơi vội vàng khi đưa một nghiên cứu chưa hoàn chỉnh ra trước một Hội thảo Khoa học. Không nên mạt sát ông, chửi ông điên rồ. Song đã làm nghiên cứu thì phải chấp nhận sòng phẳng chuyện mình thành công hay thất bại, sai hay đúng. Thực tiễn cho thấy, ngay khi đưa ra dư luận, công chúng đã không ủng hộ và đó là thất bại của ông.

Với một nhà khoa học, nghiên cứu sai hay đúng, thành công hay thất bại là chuyện hết sức bình thường. Trong khoa học, người ta có quyền thử nghiệm. Nghiên cứu của ông Bùi Hiền có thất bại thì đó là chuyện do ông đã làm sai về mặt phương pháp, quy trình, tư duy. Không thể dựa vào việc đề xuất của ông để nói rằng ông điên rồ. Có chăng chỉ nên nói rằng đề xuất này là một thất bại ngay từ trong trứng nước. Nhưng công chúng thì rất khắc nghiệt, nên nếu nghiên cứu của ông thành công, hẳn là ông được gọi là tài năng. Song nghiên cứu của ông thất bại, thì chắc chắn công chúng sẽ gọi ông là điên rồ và thực tế đã diễn ra như vậy.

Ông là nhà khoa học, ông có quyền sai chứ? Có mấy nhà khoa học nào mà đúng và thành công 100% trong cuộc đời nghiên cứu của mình đâu.

Xin cảm ơn chị về cuộc trò chuyện này!


Tiến sĩ Hà Thanh Vân sinh năm 1974, bảo vệ luận án tiến sĩ ngữ văn năm 2004. Chị là đồng tác giả của khoảng 15 đầu sách đã xuất bản, đơn cử như Văn hóa, văn học từ một góc nhìn (2002), Thơ văn nữ Nam bộ thế kỷ XX (2002), Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (2004), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại (2 tập, 2006), Nam bộ nhìn từ văn hóa, văn học và ngôn ngữ (2011)…; và hai đầu sách riêng, trong đó Văn học trẻ TP.HCM 1975 – 2000 (tập 1, NXB VHVN TP.HCM, 2011).

Mời các bạn xem lại (…)

Chữ quốc ngữ buổi đầu: Người Nhật chê, người Việt nhận


Nhật tiếp nhận nhiều văn hóa từ phương Tây, trừ chữ viết hệ La Tinh - Ảnh: Internet

Vào đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ Dòng Tên đã xuất bản một vài cuốn sách ngữ vựng và ngữ pháp Nhật theo mẫu tự abc. Chỉ có điều người Nhật đã không tận dụng điều này để cải biến hệ thống chữ viết của họ theo hệ La Tinh nên cho đến giờ người Nhật vẫn dùng các bảng chữ phi La Tinh.

Chữ quốc ngữ xứng đáng là một phát minh vĩ đại trong lịch sử nước ta. Nhờ chữ quốc ngữ, người Việt có hệ thống chữ viết riêng không phải phụ thuộc vào hệ thống chữ tượng hình phức tạp như trước. Sau khi dùng chữ quốc ngữ, chúng ta xóa tỷ lệ mù chữ rất nhanh trong thời gian ngắn. Cũng nhờ chữ quốc ngữ, Việt Nam hòa nhập với quốc tế nhanh hơn. Sẽ là không thừa nếu ôn lại sự phát triển chữ quốc ngữ.

Khi nhắc đến chữ quốc ngữ, người ta nhắc ngay công lao của ông Alexandre de Rhodes hay còn được gọi với tên Việt là Cha Đắc Lộ. Đúng là ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại bằng công trình Tự điển Việt-Bồ-La, hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh nhưng để có được bộ chữ quốc ngữ mà chúng ta dùng thì đó là công sức của nhiều người. Bản thân Cha Đắc Lộ cũng không phải là người đầu tiên tìm cách ghi tiếng của người Việt bằng hệ chữ La tinh. Giáo sĩ đã tiên phong góp công trong việc hoàn chỉnh lối chữ này phải kể đến cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha.

Các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 nhưng không có nhiều tài liệu ghi hoạt động của họ trong thời kỳ này. Đến đầu thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Dòng Tên gồm cả người châu Âu, Nhật. Giáo sĩ De Pina đến Đàng Trong năm 1617 và là nhà truyền giáo đạo Công giáo đầu tiên nói thông thạo tiếng Việt để giảng đạo trực tiếp bằng ngôn ngữ này. Ông hằng chỉ trích các giáo sĩ đương thời đã không nắm vững được ngôn ngữ địa phương để đạt được mục tiêu rao giảng Phúc Âm. Ông được cho là tác giả tập Manuductio ad Linguam Tunckinensem và là người đã giúp dạy Alexandre de Rhodes học tiếng Việt, góp phần tạo ra chữ Quốc ngữ cho việc truyền giáo.

Để ghi lại tiếng của người Việt thì De Pina là người đầu tiên thực hiện bằng việc dùng ký tự La Tinh của người Bồ Đào Nha. Theo cuốn Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659 của ông Đỗ Quang Chính viết năm 1972 khi là Trưởng ban Sử học – Đại học văn khoa Sài Gòn, ông Pina là giáo sĩ đầu tiên thông thạo việc giao tiếp với người Việt nên chỉ ông khi đó mới có khả năng ghi lại tiếng Việt bằng chữ La Tinh. Tuy nhiên, ý tưởng dùng chữ La Tinh để ghi chữ Việt cũng là học theo cách mà các giáo sĩ đi trước áp dụng với tiếng Nhật. Vào đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ Dòng Tên đã xuất bản một vài cuốn sách ngữ vựng và ngữ pháp Nhật theo mẫu tự abc. Chỉ có điều người Nhật đã không tận dụng điều này để cải biến hệ thống chữ viết của họ theo hệ La Tinh nên cho đến giờ người Nhật vẫn dùng các bảng chữ phi La Tinh.

Trong nguyệt san MISSI của các cha Dòng Tên năm 1961 cũng thừa nhận về chuyện trước đó 300 năm: Thật vậy, giống như Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.

Trong khi Nhật không tiếp nhận chữ La Tinh, thì hệ thống chữ La Tinh cho người Việt lại có sự phát triển mạnh mẽ và sử dụng rất hiệu quả sau này. Nhưng buổi ban đầu thì chữ quốc ngữ bắt đầu chập chững những bước đi đầy gian khó để trước khi hoàn hảo như hiện giờ. Năm 1620, thời điểm có những bản thảo chữ quốc ngữ đầu tiên, dù khi đó giáo sĩ Pina đã nói được tiếng Việt, nhưng khó lòng mà phân biệt được lối cách ngữ và các thanh trong từ như chúng ta dùng ngày nay. Dựa vào những tài liệu viết tay năm 1621- 1626, các chữ còn viết liền theo kiểu người châu Âu và chưa thấy đánh dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã) vào những chữ đó. Ví dụ khi viết An Nam thì các văn bản thời kỳ 1620-1626 vẫn ghi là Annam hay ghi ông nghè bằng từ Ungue. Tỉnh Quảng Nghĩa (sau đổi thành Quảng Ngãi để tránh phạm húy) lúc đó được ghi là Quamguya.

Việc khi ấy, các giáo sĩ chưa phân biệt được dấu cũng rất bình thường. Người châu Âu lần đầu khi tiếp xúc với tiếng Việt vô cùng hoang mang khi mỗi tiếng của người Việt là một từ và khi lên giọng xuống giọng lại thành một từ hoàn toàn khác. Linh mục Gio. Filippo de Marini ở Đàng Ngoài từ 1647 - 1658, cũng nhận rằng: “Một người sau khi đã học nói tiếng Việt kha khá, thì kinh nghiệm cho họ hay rằng, tiếng Việt quả là cực kỳ khó khăn”.

Linh mục Joseph Tissanier ở Đàng Ngoài từ 1658 - 1663 cũng ghi lại như sau: “Tôi xin thú nhận rằng, lúc đầu tiếng Việt làm tôi phát sợ, vì thấy nó khác các ngôn ngữ Âu châu quá, nên hầu như tôi thất vọng trong việc học tiếng này”.

Chính cha Đắc Lộ cũng thừa nhận bị choáng khi lần đầu nghe tiếng Việt. Ông viết: “Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài giảng bằng tiếng Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người thông dịch lại”.

Cuối năm 1625, cha Pina qua đời nhưng việc phát triển chữ quốc ngữ không dừng lại. Cha Đắc Lộ tiếp nhận những kiến thức từ cha Pina truyền đạt trong việc ghi âm tiếng Việt bằng hệ chữ La Tinh tiếp tục phát triển để hoàn thiện tiếp.

Để chữ quốc ngữ có thanh điệu, cần ghi công một cậu bé


Cha Đắc Lộ và cuốn sách đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ - Ảnh: Internet

Cha Đắc Lộ nói rằng nhờ một cậu bé 13 tuổi (sau này được đặt tên Thánh là Rafael Rhodes) mà ông mới hiểu được hệ thống thanh điệu, lên xuống giọng của người Việt và đó là cơ sở quan trọng để đặt ra các thanh huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng.

Trong phần trước, chúng tôi đã đề cập đến bước sơ khởi trong tiến trình phát triển chữ quốc ngữ. Ở giai đoạn 1620-1626, các giáo sĩ mà đi đầu là cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha đã bắt đầu thực hiện ghi âm tiếng Việt bằng ký tự La Tinh. Việc ghi của thời này khá đơn giản khi các từ ghép vẫn được viết nối nhau và không hề có vần.

Phải đến sau 1626 thì bắt đầu có việc ghi cách ngữ và gắng chép có dấu để phân biệt độ lên hạ giọng trong phát âm của người Việt. Việc học cách để ghi cách ngữ chỉ cần có thời gian và chỉnh thói quen là làm được. Nhưng riêng việc phân biệt dấu qua cách lên xuống giọng của người Việt là cực hình đối với người phương Tây, đó còn chưa kể đến việc một tiếng còn có nhiều nghĩa khác nhau.

Để người ngoại quốc thấy rõ hơn sự nguy hiểm trong khi phát thanh sai tiếng Việt, cha Đắc Lộ thuật lại hai câu chuyện sau đây: Một hôm Linh mục bạn với Đắc Lộ muốn bảo người giúp việc đi chợ mua cá. Khi người giúp việc ở chợ về, bảo cho ông hay là đã mua như ý Linh mục muốn. Ông liền xuống nhà bếp coi xem loại cá nào, thì ông ngỡ ngàng vì người đi chợ lại mua một thúng đầy cà. Linh mục biết ngay là vì đã đọc trại tiếng cá thành cà, nên ông xin lỗi người giúp việc. Một Linh mục khác bảo người nhà đi chém tre. Đoàn trẻ em trong nhà Linh mục nghe thế sợ quá, bỏ chạy tán loạn. Thì ra ông phát thanh lầm là chém trẻ, nên làm cho đàn trẻ em khiếp sợ. Phải giải thích mãi trẻ em mới yên tâm và trở về nhà với Linh mục.

Do vậy, để có thể truyền tải hết tiếng Việt vào chữ viết thì phải có cách chép dấu. Cuốn công trình Tự điển Việt-Bồ-La của cha Đắc Lộ ra đời năm 1651 đã giải quyết được vấn đề đó. Cha Đắc Lộ nói rằng nhờ một cậu bé 13 tuổi (sau này được đặt tên Thánh là Rafael Rhodes) mà ông mới hiểu được hệ thống thanh điệu, lên xuống giọng của người Việt (cơ sở quan trọng để đặt ra các thanh huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng). Cha Đắc Lộ viết: “Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng La Tinh và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thầy giảng giúp việc các cha truyền giáo và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi Vương quốc Lào láng giềng”.

Thực ra, cha Đắc Lộ không thể một mình tự nghiên cứu mà ra cuốn Tự điển Việt-Bồ-La mà cần dựa vào nghiên cứu, đúc kết của nhiều giáo sĩ khác. Thời gian cha Đắc Lộ ở Việt Nam không liên tục mà bị ngắt quãng do chính sách của triều đình 2 đàng khi đó. Trước khi bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, cha Đắc Lộ chỉ có 57 tháng ở với người Việt (ở Đàng Trong từ tháng 12.1624 đến tháng 7.1626 và ở Đàng Ngoài từ tháng 3.1627 đến 5.1630). Sau đó, ông phải ở Áo Môn (tức Macau) trong 10 năm rồi mới quay trở lại Đàng Trong năm 1640 nhưng cũng không ở liên tục mà chia làm 3 lần (lần 1: tháng 2.1640 đến 9.1640, rồi về Áo Môn, lần 2: tháng 12.1640 đến 7.1641, sau đó về Áo Môn, lần 3: tháng 1.1642 đến 7.1643, lại về Áo Môn).

Chính vì sự ngắt quãng đó cộng với công việc khá nhiều nên cha Đắc Lộ khó có thời gian chuyên tâm nghiên cứu việc phiên âm tiếng Việt. Dựa vào các văn bản có lưu dấu chữ quốc ngữ của cha Đắc Lộ viết trong thời gian đi lại giữa Việt Nam và Áo Môn, các nhà nghiên cứu nhận thấy trình viết của cha Đắc Lộ khi ấy khó sánh bằng cha Gaspar do Amaral. Cha Amaral đến Thăng Long cuối năm 1629 và trong bản tường trình gửi về Bồ Đào Nha ngày 31.12.1632, cha Amaral đã viết rất nhiều chữ quốc ngữ cách ngữ và có dấu như Kẻ Chợ (chỉ Thăng Long), yêu nhău (yêu nhau), hụyen (huyện), bà đạu (bà đạo), đàng ngoằy (đàng ngoài), nhũộn (nhuận)... Có thể thấy nhiều từ quốc ngữ được cha Amaral viết khi đó khá xa với từ hiện giờ nhưng so với cách viết của cha Đắc Lộ khi ấy thì tốt hơn rất nhiều. Cùng thời điểm và có thể muộn hơn, bản viết tay của cha Đắc Lộ vẫn ghi Ce Che (Kẻ Chợ), dau nhu (đạo Nho), huyen gna (huyện nha)...

Đến năm 1637, thư của cha Amaral đã có nhiều chữ quốc ngữ khá sát với bây giờ hơn khi ông dùng chính xác nhiều từ như đức, thầy, Nghệ An, đàng ngoài... Trong khi đó, cách viết từ quốc ngữ của cha Đắc Lộ cũng không tiến triển nhiều hơn, rất ít dùng chữ có dấu. Phải đến 1644, cách viết chữ quốc ngữ của cha Đắc Lộ mới có bước tiến rõ rệt khi trở lại Việt Nam. Thời kỳ đó, ông đã viết được cả câu quốc ngữ dài: “giũ nghĩ cũ đ Chúa Jesu cho đen het hoy, cho đen blon đoy” (giữ nghĩa cùng đức Chúa Jêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời).

Có thể thấy trong thời gian trước 1645 thì cha Amaral là người xuất sắc trong việc dùng chữ quốc ngữ và ông cũng là người soạn cuốn tự điển Việt-Bồ-La (Diccionário anamita-português-latim). Nói đến lịch sử chữ quốc ngữ trong giai đoạn này, không thể bỏ qua Linh mục Antonio Barbosa (1594-1647) người Bồ Đào Nha. Cuối tháng 4.1636, Barbosa đến Đàng Ngoài, nhưng rồi ông trở về Áo Môn vào tháng 5.1642, vì lý do sức khỏe. Cha Barbosa đã soạn thảo cuốn tự điển Bồ - Việt (Diccionario português-anamìta).

Chính 2 cuốn tự điển Việt - Bồ - La của cha Amaral và cuốn tự điển Bồ - Việt của cha Barbosa đã đặt nền móng để cha Đắc Lộ soạn cuốn tự điển Việt-Bồ-La ra đời 1651. Đó là bước ngoặt rất quan trọng để một thời gian ngắn sau đó, người Việt Nam bắt đầu dùng chữ La Tinh để ghi chép.

Theo Internet (…)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những người bạn

 
Support : Creating Website | SkyskyskyTemplate | DoThanh Template
Proudly powered by Blogger
Copyright © 2011. KỸ THUẬT ĐÀ NẴNG - All Rights Reserved
Template Design by Creating Website Published by SkyDoThanh Template