Đỗ Xuân Thạnh_Skyskysky :

Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

Các nhà lập quốc Mỹ học gì từ nền cộng hoà La Mã?




Các nhà lập quốc Mỹ học gì từ nền cộng hoà La Mã?


Trong cuộc tranh luận nhằm tìm kiếm một mô hình chính quyền phù hợp nhất cho nước Mỹ, các nhà lập quốc đã khảo sát hầu hết các kiểu thể chế từng tồn tại trong lịch sử. Có thể thấy những nỗ lực dày công ấy được trình bày trong cuốn sách A Defence of the Constitutions of Government of the United States of America của Phó Tổng thống John Adams (cũng là vị tổng thống thứ hai của Mỹ).

Hai mô hình chính

Hai mô hình được quan tâm nhất chính là kiểu dân chủ trực tiếp của Athens và nền cộng hòa La Mã. Sở dĩ như vậy là vì chúng chứa đựng những ý tưởng xuất chúng của tiền nhân: chủ quyền nhân dân, cai trị theo pháp luật, và tự do dân sự. Đó cũng chính là điều mà các nhà lập quốc mong muốn ở nước Mỹ tương lai.

Kiểu thể chế của Athens tuy thấm đẫm tinh thần dân chủ nhưng lại khó áp dụng cho một nước Mỹ rộng lớn. Có vẻ như nó chỉ phù hợp với các nhà nước nhỏ có quy mô thành bang như Athens. Không những vậy, hầu hết các nhà lập quốc Mỹ đều coi nền dân chủ trực tiếp của Athens – nơi mà mọi công dân cùng cai trị quốc gia thông qua việc bỏ phiếu trong các hội đồng toàn dân – là một hình thức cai trị không ổn định và chứa đựng nhiều hiểm họa. Ngay cả James Madison, người được coi là cha đẻ của Hiến pháp Mỹ, cũng nói rằng “dẫu mỗi công dân Athens đều là một Socrates, thì mọi hội đồng của Athens vẫn chỉ là một đám đông”. [1]



Tranh “Declaration of Independence” của John Trumpull (1817), minh họa buổi trình bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập lên Quốc hội Mỹ vào năm 1776. Người đứng bên trái ngoài cùng trong nhóm năm người trình bản dự thảo là John Adams.

Nhìn chung, các nhà lập quốc Mỹ ưa thích mô hình của Cộng hòa La Mã hơn – thứ mà sử gia Polybius đã gọi là “mô hình hoàn hảo nhất từng tồn tại”. [2] Khó mà phủ nhận sức hấp dẫn của một nền cộng hòa ổn định đã tồn tại bền vững gần 500 năm, lại có nhiều nét tương đồng với Mỹ buổi đầu lập quốc.

Theo sử gia Carl J. Richard, các nhà lập quốc Mỹ chia sẻ với những mối bận tâm chung với kiến trúc sư của nền cộng hòa La Mã. Ấy là nỗi e dè về một chính quyền tập trung bởi họ đã trải qua thời kỳ của những kẻ cai trị chuyên chế, thái độ ngần ngại về một xã hội mở với dân cư từ khắp các miền các xứ đổ về, và lo lắng về tình trạng cát cứ hay chia rẽ bởi quốc gia có diện tích rộng lớn.

Trong kỳ đầu của loạt bài này, chúng ta đã thấy rằng La Mã sở hữu một chính quyền mang nhiều ưu điểm, nhất là cơ chế phân chia quyền lực cho ba bộ phận là Quan chấp chính, Viện Nguyên lão, và các hội đồng nhân dân. Ba bộ phận này hợp tác và kiểm soát lẫn nhau giúp cho quyền lực được sử dụng một cách khôn ngoan.

Tuy La Mã đã tạo ra một chính quyền hoàn hảo so với các mô hình đương thời, song cuối cùng nó cũng không tránh khỏi cảnh suy tàn và sụp đổ. Vấn đề đặt ra cho các nhà lập quốc Mỹ là: làm thế nào để có thể sao chép mô hình nhà nước của Cộng hòa La Mã mà không phải chịu chung số phận với nó.

Phân chia quyền lực theo chức năng

Học hỏi từ Cộng hòa La Mã, các nhà lập quốc Mỹ hiểu rằng cần phải thiết kế một cơ chế phân chia và kiểm soát quyền lực cho nước Mỹ để giữ cho chính quyền ổn định, hiệu quả, và tránh cảnh lạm quyền. Tuy nhiên, khuyết điểm của La Mã là nó chưa phân chia quyền lực một cách hoàn toàn triệt để.

Chính vì Viện Nguyên lão không có quyền phủ quyết các dự luật khi các hội đồng đã thông qua, nên những kẻ mị dân mới có thể thao túng các hội đồng để đạt được mục đích chính trị của mình. Tình trạng này làm suy yếu quyền lực của Viện Nguyên lão – một trong ba trụ cột của nền Cộng hòa La Mã – qua đó làm mất đi thế cân bằng quyền lực.

Do đó, cần phải có một cơ chế triệt để hơn. Để như vậy, cần phải phân chia quyền lực theo chức năng thay vì phân chia theo các lực lượng xã hội như Cộng hòa La Mã (nơi mà mỗi cơ quan đại diện cho một tầng lớp trong xã hội để kiểm soát lẫn nhau).

Theo đó, chính quyền Mỹ được phân chia thành ba nhánh là hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Đồng thời, ba nhánh này độc lập với nhau và có quyền phủ quyết lẫn nhau, giúp cho thế cân bằng trở nên vững vàng hơn.

Bảng tóm lược mô hình chính quyền dưới đây cho thấy các nhà lập quốc Mỹ đã học hỏi và cải biến từ Cộng hòa La Mã như thế nào:



Click vào hình

Lập pháp thông qua hội đồng đại diện

Cơ quan làm luật chính của La Mã là các hội đồng, tại đó người dân trực tiếp tham gia bỏ phiếu đối với các vấn đề lập pháp và bầu chọn quan chức, chứ không thông qua người đại diện.

Sự tham gia đông đảo của người dân khiến cho chất lượng lập pháp thấp, vì họ khó mà cùng thảo luận và thống nhất các vấn đề. Đồng thời đám đông dễ bị những kẻ mị dân như anh em nhà Gracchus (quan hộ dân Tiberius và Gaius) thao túng để phục vụ cho các tham vọng chính trị.

Để khắc phục nhược điểm này, người Mỹ đã áp dụng hệ thống đại diện, tại đó người dân thay vì trực tiếp tham gia vào việc lập pháp thì họ bầu ra người đại diện vào trong Hạ viện (một cơ quan có vai trò tương tự các hội đồng của La Mã) để thay họ quyết định các vấn đề quốc gia. Nhờ đó, việc lập pháp trở nên trôi chảy và hiệu quả hơn, đồng thời tránh được các vấn đề mà Cộng hòa La Mã đã mắc phải.

Thượng viện như một cơ quan khôn ngoan và đầy kinh nghiệm

Các nhà lập quốc Mỹ hiểu rất rõ về nguy cơ của việc lập pháp đơn nhất. John Adams cũng chỉ ra rằng: “Một cơ quan lập pháp đơn nhất dễ đi tới chỗ suy đồi”. [3] Do đó, họ quyết định phân chia nhánh lập pháp thành hai cơ quan là Thượng viện và Hạ viện.



Hình ảnh mô phỏng cơ chế đại diện của Thượng viện và Hạ viện Mỹ. Mỗi bang bất kể lớn nhỏ đều có hai nghị sĩ trong Thượng viện, trong khi đó số Hạ nghị sĩ phụ thuộc vào dân số của bang.

Người Mỹ mô phỏng Thượng viện (Senate) của mình tương tự như Viện Nguyên lão (Senatus) của La Mã. Họ cũng trao cho nó các quyền tương tự trong các vấn đề về ngoại giao, luận tội phản quốc, và chấp thuận bổ nhiệm các quan chức trong nhánh hành pháp và tư pháp.

Cũng giống như Viện Nguyên lão, Thượng viện được coi như một cơ quan “khôn ngoan và đầy kinh nghiệm” để cân bằng với một Hạ viện gần như hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của cử tri (tương tự như các hội đồng).

Tuy nhiên, bởi Viện Nguyên lão của La Mã không có quyền phủ quyết các quyết định của các hội đồng nên giữa các Nguyên lão và các quan Hộ dân liên tục nổ ra xung đột bạo lực. Rút kinh nghiệm từ đó, người Mỹ đã trao cho Thượng viện quyền phủ quyết Hạ viện.

Phi chính trị hóa quân đội

Khi Viện Nguyên lão từ chối trợ cấp cho quân đội, vô tình họ đã đẩy lòng trung thành của binh lính sang cho những tướng lãnh giàu có và đầy tham vọng như Marius, Sulla, Caesar. Họ dùng tài sản để thao túng binh lính, rồi sử dụng chính lực lượng này để theo đuổi quyền lực cá nhân.

Các nhà lập quốc Mỹ đã tránh vết xe đổ này bằng cách đặt ra nguyên tắc phi chính trị hóa quân sự, đồng thời đặt lực lượng quân sự nằm dưới quyền kiểm soát của dân sự.

Theo đó, quân đội Mỹ có trách nhiệm bảo vệ đất nước, bảo vệ các quyền tự do của nhân dân, và phải trung thành với nền cộng hòa. Quân đội cũng không được đại diện hay ủng hộ bất cứ quan điểm chính trị nào hay bất cứ tổ chức nào.



Một Thượng sĩ cầm lá cờ Mỹ trên một chiếc máy bay quân sự. Ảnh: U.S. Air Force/Tia Schroeder

Tuy người Mỹ rất coi trọng vai trò chuyên môn của giới quân sự, song chỉ có các lãnh đạo dân sự (do người dân bầu lên) mới có quyền đưa ra những quyết sách cuối cùng về phòng thủ quốc gia. Những điều này được thể hiện trong chính lời thề của giới quân đội khi gia nhập vào Lực lượng Vũ trang: “Tôi, __, trịnh trọng tuyên thệ [hoặc khẳng định] rằng tôi sẽ phục vụ và bảo vệ Hiến pháp Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ chống lại mọi kẻ thù ngoại nhân hay nội quốc; rằng tôi nguyện tin tưởng và trung thành với Hiến pháp ấy; và rằng tôi sẽ tuân theo mệnh lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ và mệnh lệnh của các vị chỉ huy cấp trên, theo các quy định và Bộ luật Thống nhất về Tư pháp Quân đội. Xin Thượng Đế phù trợ.” [4]

Duy trì một tầng lớp trung lưu đủ lớn

Mức độ bất bình đẳng xã hội ở La Mã rất cao, khi mà hầu hết tài sản tập trung vào tay giới quý tộc. Tình trạng này là nguyên nhân chính gây ra vô số cuộc xung đột chính trị giữa phe quý tộc và phe bình dân, để rồi dẫn tới các cải cách vi hiến làm suy giảm nền tảng truyền thống cộng hòa (điển hình là cuộc cải cách quân sự của Marius và cải cách đất đai của Gracchus).

Rút kinh nghiệm từ đây, người Mỹ luôn coi việc giảm thiểu bất bình đẳng là ưu tiên hàng đầu trong chính sách của họ. Để làm được điều đó, họ đã nỗ lực duy trì một tầng lớp trung lưu đủ lớn nhằm làm giảm phân hóa chính trị và tăng khả năng đồng thuận chính sách. Đây chính là cơ sở giúp cho nền cộng hòa vận hành ổn định.



Người ta có thể bắt gặp những dấu ấn của Cộng hòa La Mã ở khắp nơi trong nền chính trị Mỹ: từ biểu tượng đại bàng cho tới khuôn mặt người La Mã khắc trên các đồng xu cũ, từ veto cho tới sine die, từ cơ chế phân chia kiểm soát quyền lực cho tới cả thiết chế cộng hòa.

Người Mỹ cũng đã cố gắng khắc phục những vấn đề đã dẫn nền cộng hòa La Mã tới chỗ suy tàn. Nhưng điều ấy không có nghĩa là mọi chuyện đã ổn. Nước Mỹ giờ đây có vẻ như đang bị cuốn vào vũng lầy mà La Mã đã kinh qua trong những năm cuối cùng của một nền cộng hòa vĩ đại. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu câu chuyện này. (xem phía dưới_Sky+)

Chú thích:

1. James Madison, Federalist No. 55.
2. Robin Waterfield (biên tập) 2010; Polybius; The Histories (Oxford World’s Classics); Oxford University Press.
3. John Adams, 1778, A Defence of the Constitutions of Government of the United States of America.
4. 10 U.S. Code, § 502(a).

Tài liệu tham khảo:
1. Henrik Mouritsen, 2017, Politics in The roman Republic, Cambridge University Press.
2. Mortimer N. Sellers, 1994, American Republicanism: Roman Ideology in the United States Constitution, NYU Press.
3. David J. Bederman, 2008, The Classical Foundations of the American Constitution, Cambridge University Press.
4. Carl Eric Scott, Late Republic Studies: Unhelpful Roman Lessons, National Review,1/4/2015.

Kỳ 1: Người La Mã nhốt quyền lực vào lồng thể chế cộng hòa như thế nào

La Mã là một nền cộng hòa trứ danh trong lịch sử nhân loại.

Ban đầu đế chế này theo chế độ quân chủ. Kiểu cai trị tùy tiện và độc đoán của nhà vua đã gây căm phẫn trong giới quý tộc suốt nhiều năm. Giọt nước tràn ly khi hoàng tử nhà Tarquins cưỡng bức nàng Lucretia, người vợ đức hạnh của một quý tộc, khiến nàng phẫn uất mà tự tử. Giới quý tộc La Mã đã nhân cớ ấy để nổi dậy lật đổ chế độ quân chủ, thiết lập nên một chế độ mới mà họ gọi là “cộng hòa”.

Trong tiếng Latin, cộng hòa (res publica) có nghĩa là “công việc chung” – cụ thể ở đây là việc cai trị, một vấn đề của mọi công dân chứ không phải của riêng gì kẻ cầm quyền.

Nền cộng hòa này tồn tại trong suốt gần nửa thiên niên kỷ, từ năm 509 TCN đến 44 TCN khi nhà độc tài Caesar bị ám sát, và chấm dứt hoàn toàn khi Octavian nắm quyền lực tuyệt đối vào năm 27 TCN.



Lãnh thổ của Cộng hòa La Mã thời kỳ cuối. Ảnh: LibGuides

Theo sử gia Polybius viết trong bộ “The Histories”, nền Cộng hòa La Mã là một dạng “chính quyền hỗn hợp” bao gồm ba bộ phận quân chủ, quý tộc, và dân chủ. Trong đó, các Quan Chấp chính (Consules) đại diện cho bộ phận quân chủ, Viện Nguyên lão (Senatus) đại diện cho bộ phận quý tộc, còn Hội Đồng các Century (Comitia Centuriata) đại diện cho bộ phận dân chủ.

Kiểu chính quyền hỗn hợp này đã giúp La Mã trở thành một nền cộng hòa ổn định nhất so với mọi kiểu thể chế đương thời, thậm chí là so với nhiều thể chế về sau.

Vấn đề của các chính quyền đơn nhất

Theo Polybius, dựa vào số lượng người cai trị, ta có thể phân chia chính quyền thành ba dạng: quân chủ (do một người cai trị), quý tộc (do một nhóm người thuộc tầng lớp giàu sang cai trị), và dân chủ (do đa số dân chúng cai trị).

Ba dạng chính quyền này, theo thời gian, sẽ thoái hóa thành các dạng thức suy đồi sau: quân chủ sẽ hóa thành độc tài chuyên chế, quý tộc sẽ chuyển thành tập đoàn đầu sỏ, và dân chủ sẽ biến thành vô chính phủ.

Chế độ quân chủ có ưu điểm là linh hoạt và hiệu quả, vì thông thường nhà vua có toàn quyền quyết định chính sách mà không cần phải thông qua tranh luận. Tuy nhiên, chế độ này dễ dẫn đến lạm quyền cũng như hạn chế các quyền tự do chính trị của công dân.

Polybius cho rằng chế độ quân chủ chắc chắn sẽ bị thay thế bởi chế độ quý tộc, bởi khi mà giới giàu có không còn muốn sống dưới sự cai trị của một ông vua, họ sẽ thiết lập một nền cai trị do một tập thể của những công dân giàu có và ưu tú nhất lãnh đạo.

Tuy nhiên, chế độ quý tộc rồi cũng rơi vào suy đồi, khi người giàu thay vì phục vụ cho lợi ích của toàn xã hội thì lại chỉ theo đuổi lợi ích của chính họ. Do đó, Polybius khẳng định rằng chế độ quý tộc cuối cùng sẽ bị thay thế bởi chế độ dân chủ, nơi mà mọi công dân có quyền bỏ phiếu và tham gia vào việc cai trị.

Song, chế độ dân chủ vẫn sẽ lại suy đồi, khi những kẻ mị dân được dân chúng bầu lên nắm quyền và thực thi các chính sách thảm họa. Một khi dân chủ rơi vào cảnh vô chính phủ, thì tình trạng này chỉ có thể chấm dứt khi một kẻ đầy quyền lực khôi phục lại trật tự, thâu tóm mọi quyền hành và tự đặt mình làm vua.

Vòng tròn thay đổi chế độ lại lặp lại, chế độ quân chủ lại sẽ bị thay thế một lần nữa bởi chế độ quý tộc, rồi quý tộc bởi dân chủ, cứ như thế tiếp diễn. Đó chính là chu kỳ chuyển dịch giữa các dạng chính quyền.

Polybius cho rằng sự chuyển dịch này gây ra ảnh hưởng tai hại. Nó khiến quốc gia liên tục rơi vào các cuộc nội chiến, phải thay đổi thể chế và chịu đựng bất ổn dài hạn. Đây cũng chính là lý do khiến cho các thành bang Hy Lạp thất bại thảm hại trước quân Macedonia xâm lược dưới tay Philipos II (cha của Alexandre Đại Đế) hồi năm 338 TCN.

Tuy nhiên, Cộng hòa La Mã không gặp phải vấn đề như vậy nhờ hệ thống chính trị của họ. Họ đã thiết kế một thể chế có thể ngăn chặn được sự chuyển dịch này, và tạo ra sự ổn định chính trị trong nhiều thế kỷ. Đây chính là cơ sở để cho La Mã thống nhất bán đảo Ý, sau đó chinh phục và duy trì một cường quốc trên vùng Địa Trung Hải.

Về chính quyền hỗn hợp của La Mã

Theo Polybius, chìa khóa thành công của nền Cộng hòa La Mã chính là cơ chế phân quyền, với ba bộ phận quyền lực: Hội đồng các Century, Quan Chấp chính, và Viện Nguyên lão.

Hội đồng các Century (Comitia Centuriata)

Hội đồng các Century là cơ quan có quyền lập pháp tối cao của nền Cộng hòa, bao gồm toàn thể công dân La mã, được phân chia thành 192 đơn vị Century. Mỗi đơn vị Century có một phiếu bầu trong hội đồng. Một đơn vị Century có tối đa 100 công dân. Việc phân chia công dân vào mỗi Century tùy theo mức độ giàu có của công dân.

Hội đồng các Century họp hai lần mỗi năm tại Quảng trường Mars – để quyết định những vấn đề cơ bản của xã hội như tuyên chiến hay nghị hòa, bầu chọn quan Chấp chính và các quan chức khác, và thông qua các dự luật do quan chấp chính đề nghị.

Quan chấp chính (Consules)

Để ngăn chặn nguy cơ những kẻ tham vọng muốn khôi phục chế độ quân chủ, Hội đồng các Century bầu lên hai quan Chấp chính với nhiệm kỳ một năm. Họ có các nhiệm vụ như điều hành hoạt động nhà nước, đứng đầu quân đội, thực thi luật pháp, triệu tập Hội đồng, cũng như trình các dự luật cho Hội đồng này thông qua.

Mỗi quan Chấp chính còn có quyền đề ra các sắc lệnh có hiệu lực như luật, nhưng quan Chấp chính kia có thể bác bỏ những sắc lệnh này bằng cách sử dụng quyền phủ quyết. Khi cả hai quan Chấp chính cùng có mặt ở trong nước, thì họ thực thi thẩm quyền của mình tuần tự mỗi người một tháng và cứ thế xoay vòng. Trong thời chiến, thông thường một người sẽ nắm quân đội ngoài chiến trường, còn người kia ở lại trong nước để cáng đáng công việc quốc gia.

Khi quốc gia lâm nguy, một trong các quan chấp chính (hoặc một người khác) có thể được Viện Nguyên lão bổ nhiệm thành một nhà độc tài. Anh ta, với quyền lực hợp nhất từ cả hai quan chấp chính, có toàn quyền hành động theo những gì được cho là cần thiết để bảo vệ quốc gia. Tuy nhiên anh ta chỉ được phép nắm quyền trong vòng tối đa là sáu tháng. Sau khi vấn đề đã được giải quyết, anh ta phải trả lại quyền lực cho nền cộng hòa.



Viện Nguyên lão của Cộng hòa La Mã. Ảnh: historiaybiografias.com

Viện Nguyên lão (Senatus)

Viện Nguyên lão gồm các thành viên có nguồn gốc quý tộc với nhiệm kỳ suốt đời. Về mặt chức năng, đây là một cơ quan tư vấn cho các quan Chấp chính và người dân. Tuy nhiên, theo thời gian thì thẩm quyền và ảnh hưởng của Viện Nguyên lão tăng lên. Viện Nguyên lão có quyền thảo luận và định hình các dự luật trước khi các quan Chấp chính trình chúng cho Hội đồng các Century. Viện nguyên lão cũng chi phối các chính sách tài chính, quyết định quỹ nào được sử dụng cho chiến tranh và quỹ nào cho công trình công cộng, đây chính là nguyên nhân khiến nó thực sự kiểm soát nhà nước.

Vì các Nguyên lão thường tại vị suốt đời, nên Viện Nguyên lão uy thế hơn hẳn so với các quan Chấp chính, những người chỉ nắm giữ quyền lực trong một năm.

Kiểm soát và cân bằng

Cộng hòa La Mã đã phân chia quyền lực thành ba bộ phận chính như trên. Chính kiểu thể chế này đã cho phép mỗi nhánh của chính quyền có thể kiểm soát các nhánh khác.


Sử gia Polybius (200-118 TCN), tác giả bộ sử nổi tiếng viết về nền Cộng hòa La Mã. Ảnh: Britannica

Các quan Chấp chính có thể kiểm soát lẫn nhau thông qua quyền phủ quyết của mình. Viện Nguyên lão có thể kiểm soát các quan Chấp chính bằng cách không phê duyệt ngân sách. Người dân (thông qua Hội đồng các Century) có thể kiểm soát quan Chấp chính bằng cách không thông qua các đề nghị bổ nhiệm, hoặc kiểm soát Viện Nguyên lão bằng cách từ chối chấp nhận các dự luật mà Viện Nguyên lão muốn thông qua.

Tuy nhiên, người dân cũng phải hợp tác với các Quan chấp chính và Viện nguyên lão để có thể thụ hưởng các lợi ích đến từ việc làm và chi tiêu công. Bên cạnh đó, vì các quan chấp chính thường là thành viên Viện Nguyên lão trước khi được bầu chọn, và trở lại Viện Nguyên lão sau khi hết nhiệm kỳ chấp chính, nên mối quan hệ giữa Viện Nguyên lão và các quan Chấp chính rất gần gũi.

Khi nền cộng hòa đối mặt với mối đe dọa, cả ba nhánh chính quyền cùng hợp tác để bảo vệ quốc gia. Đồng thời nếu một nhánh trở nên quá mạnh, hai nhánh kia có thể hợp tác để kiểm soát quyền lực của nó.

Bằng cách kết hợp theo kiểu kiểm soát và cân bằng của ba bộ phận quân chủ, quý tộc, và dân chủ như vậy, Cộng hòa La Mã đã khiến cho quyền lực không bị lạm dụng, lợi ích chung được đảm bảo, và từ đó nền cộng hòa đi vào ổn định. Cơ chế này giúp cho La Mã tránh được vòng xoáy chuyển đổi thể chế liên tục và đầy bạo lực – tình trạng mà các kiểu chính quyền đơn nhất luôn bị cuốn vào do thiếu kiểm soát quyền lực.

Cộng hòa La Mã đã để lại nhiều bài học cho thế hệ sau trong việc xây dựng một chính quyền. Một trong những bài học trung tâm của nó chính là: để chống lạm quyền, quốc gia cần phải có cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực.

Trong các bản hiến pháp dân chủ ngày nay, việc kiểm soát và cân bằng được thực hiện nhờ ba nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Ý tưởng ấy có thể được coi là bắt nguồn từ cơ chế phân quyền với ba bộ phận quân chủ, quý tộc, và dân chủ của La Mã hai ngàn năm trước đây.

Tài liệu tham khảo
Robin Waterfield (biên tập) 2010; Polybius; The Histories (Oxford World’s Classics); Oxford University Press.
• O. Foster (chuyển ngữ) 1919; Livy; Livy: History of Rome; Harvard University Press.
• Marshall Davies Lloyd 1999; Polybius and the Founding Fathers: the separation of powers; St. Margaret’s School.
• William E. Dunstan; 2010; Ancient Rome; Rowman & Littlefield Publishers.

Kỳ 2: Bốn nguyên nhân khiến Cộng hòa La Mã sụp đổ





Thành Rome thời cổ đại. Nguồn: Chưa rõ. Như chúng ta đã biết, Cộng hòa La Mã đã tồn tại ổn định hàng trăm năm nhờ vào mô hình chính quyền hỗn hợp. Mô hình ấy trụ vững bởi thế cân bằng quyền lực kiềng ba chân của ba bộ phận là quan Chấp chính, Viện Nguyên lão, và Hội đồng các Century (về sau là Hội đồng Bộ lạc).

Tuy nhiên, càng về gần mốc Công nguyên, thế cân bằng ấy càng bị phá vỡ. Cộng hòa La Mã với gần 500 năm tồn tại đã âm ỉ một loạt các vấn đề như bất bình đẳng xã hội, chính quyền tham nhũng, chính trị hóa quân đội, và suy giảm các đức hạnh truyền thống. Chính những điều ấy đã khiến cho nền tảng của nền cộng hòa bị xói mòn và cuối cùng sụp đổ dưới bàn tay của những kẻ chuyên chế tiếm quyền.

Bất bình đẳng xã hội và những cải cách làm xói mòn nền Cộng hòa

Ngoại trừ tầng lớp nô lệ, xã hội La Mã phân chia thành hai đẳng cấp là giới bình dân và giới quý tộc.



Quan hộ dân Gaius Gracchus đang chủ trì Hội đồng Pleb – Hội đồng của riêng giới bình dân. Tranh: Silvestre David Mirys (1799).

Trong những năm đầu của nền cộng hòa, giới bình dân không được hưởng các quyền lợi công dân như những người quý tộc. Họ không được tham gia vào Hội đồng các Century, không được chia ruộng đất công, và cũng không được xét xử tại tòa. Trong khi đó, giới này lại là nguồn nhân lực chính tham gia vào việc sản xuất cho nền kinh tế, và cũng chiếm phần đông trong lực lượng quân sự quốc gia.

Trải qua cuộc xung đột giai cấp kéo dài gần hai thế kỷ (từ năm 494 TCN đến năm 287 TCN), cuối cùng giới bình dân cũng giành lấy được những quyền lợi pháp lý tương tự như giới quý tộc. Giờ đây, những người bình dân cùng với quý tộc đã có thể cùng tham gia vào chính trị thông qua Hội đồng Bộ lạc (Comitia Tributa) – cơ quan lập pháp chính của Cộng hòa La Mã.

Tuy nhiên, thực chất bất bình đẳng vẫn còn đó, khi phần lớn tài sản và địa vị chính trị trước nay chưa bao giờ tuột khỏi tay giới quý tộc.

Khoảng cách bất bình đẳng lại càng bị khoét sâu thêm khi nền cộng hòa này trở thành bá chủ trong khu vực Địa Trung Hải. Chiến thắng đã mang về cho La Mã một lượng lớn của cải và nô lệ, khiến cho một bộ phận quý tộc trở nên ngày một giàu có. Song song với đó, hàng hóa rẻ từ nước ngoài tràn vào La Mã khiến cho các tiểu địa chủ bị phá sản. Dòng người thất nghiệp ở nông thôn đổ ra thành phố lớn, tuy nhiên lượng công việc lại không đủ để đáp ứng. Hàng loạt vấn đề diễn tiến đã khiến cho mầm bệnh bất ổn xã hội ngày càng âm ỉ.

Rồi cũng đến lúc cơn bạo bệnh bùng phát. Nó không chỉ nổ ra trong giới bình dân, mà còn lây lan tới cả thượng tầng chính trị La Mã. Nó chia rẽ giới tinh hoa La Mã thành hai nhóm: nhóm bảo thủ (đại diện là Viện Nguyên lão) không chấp nhận bất cứ cải cách nào thách thức quyền lợi của họ, và nhóm cải cách (đại diện là các quan Hộ dân – Tribus) theo đuổi các chính sách phục vụ cho đa số người dân.


Tượng Tiberius Gracchus (168 – 133 TCN)

Năm 133 TCN, một vị quan Hộ dân là Tiberius Gracchus đã đưa ra dự luật cải cách ruộng đất Lex Sempronia Agraria, với ý định tái phân phối đất cho người nghèo nhằm đưa những người này quay về nông trại. Đất đai mà Gracchus đề nghị tái phân phối là đất công của quốc gia, vốn nằm dưới quyền kiểm soát của các vị nguyên lão giàu có và quyền lực.



Nhận thấy Viện Nguyên lão chắc chắn sẽ phủ quyết đề nghị này, nên để đạt được mục đích, Gracchus đã thực hiện những hành động trái với truyền thống lâu đời của nền cộng hòa. Ông đưa thẳng đề nghị của mình lên Hội đồng Bộ lạc mà không hề tham vấn Viện Nguyên lão.

Trước những hành động đầy tính thách thức của Gracchus, Viện Nguyên lão đã thao túng một vị quan Hộ dân khác là Octavius để phủ quyết dự luật này. Tuy nhiên, Gracchus lại đi kêu gọi Hội đồng Bộ lạc cách chức anh ta. Một lần nữa, hành động của Gracchus đã làm xói mòn một trong những nguyên lý trung tâm của nền cộng hòa: đó chính là tính hợp tác hành động.

Dự luật này rồi cũng được thông qua, nhưng Viện Nguyên lão từ chối cấp tiền để thực thi. Vì vậy, Gracchus lại đề xuất Hội đồng Bộ lạc thông qua một dự luật khác, đòi phải trưng thu thuế từ các khu thuộc địa mới để lấy tiền thực thi ý đồ cải cách ruộng đất của ông. Đây là lần thứ ba Gracchus thách thức truyền thống cộng hòa, bởi xưa nay việc tài chính và đối ngoại vốn thuộc về thẩm quyền của Viện Nguyên lão.

Với niềm tin rằng việc cải cách ruộng đất cần phải được tiến hành quyết liệt hơn nữa, Gracchus tuyên bố rằng ông sẽ tiếp tục làm quan Hộ dân bất chấp nhiệm kỳ sắp kết thúc. Những hành động vì dân chúng của Gracchus bấy lâu nay đã đập tan nền tảng của nền cộng hòa, và lần này là then chốt: ông phá vỡ cả nguyên lý tối cao là quyền lực phải bị giới hạn.

Vậy là, trong khi được coi như một người anh hùng của tầng lớp nhân dân đại chúng, đứng về phía quyền lợi của đa số người dân, thì Gracchus trở thành cái gai trong mắt các Nguyên lão. Cái kết rồi cũng đến khi ông và hàng trăm người ủng hộ bị giết chết ngay trong buổi tái cử của mình – và đây cũng là lần đầu tiên La Mã nổ ra một vụ xung đột đẫm máu.

Những hành động tốt đẹp song lại quá mãnh liệt của Gracchus đã phơi bày điểm yếu chí tử của nền Cộng hòa: Viện Nguyên lão không có quyền thông qua luật. Kẻ nào lợi dụng được kẽ hở này, thì kẻ ấy hoàn toàn có thể bẻ vặn cán cân quyền lực nghiêng về phía mình.

Quan trọng hơn, việc sử dụng bạo lực để đàn áp Gracchus đã đi vào đời sống chính trị La Mã, và trở thành phương tiện trong các cuộc tranh chấp quyền lực. Thói quen hợp tác lâu đời của giai cấp cai trị đã bị phá vỡ. Từ đó về sau, các tranh chấp chính trị không còn được giải quyết thông qua thương lượng nữa, mà bằng gươm đao và mạng người.

Chính quyền tham nhũng

Trong khi chính quyền trung ương dần trở nên bạo lực, giới quý tộc và bình dân chia rẽ sâu sắc, thì bộ phận quản lý ở cấp địa phương cũng ngày càng tệ hại.

Tuy liên tục bành trướng và phát triển, song La Mã lại không chú tâm xây dựng một bộ máy quan liêu chuyên nghiệp để đáp ứng quy mô quốc gia. Nó vẫn sử dụng mô hình quản lý thành bang lỗi thời. Theo đó, các quan chấp chính, các pháp quan khi hết nhiệm kỳ sẽ được bổ nhiệm làm tổng đốc để quản lý các địa phương trong thời hạn một năm. Rõ ràng khoảng thời gian một năm là quá ít để các tổng đốc có thể nắm bắt văn hóa địa phương cũng như biết cách quản lý sao cho hiệu quả.

Bên cạnh đó, các tổng đốc không được đào tạo về quản trị, không được trả lương và thậm chí không bị giám sát khi quản lý. Chính vì vậy, họ buộc phải (và hoàn toàn có khả năng) tham nhũng để đảm bảo chi tiêu. Đồng thời, cũng vì không bị ai giám sát nên họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, dẫn đến việc cai trị tùy tiện.

Để khắc phục tình trạng tham nhũng tràn lan ở các địa phương, giới cai trị đã thiết lập một cơ quan để xét xử các tổng đốc tham nhũng. Tưởng chừng như hành động này có thể vớt vát được tình hình, nhưng hóa ra nó lại đẩy nạn tham nhũng tràn lên đến bộ máy cai trị trung ương. Bởi vì giờ đây, các tổng đốc lại dùng tiền tham nhũng để hối lộ cho bồi thẩm đoàn – những người vốn cũng là đồng nghiệp của họ ở Viện Nguyên lão.

Chính trị hóa quân đội

Từ khi Cộng hòa La Mã được thành lập cho đến trước khi Marius tiến hành cải cách quân sự vào năm 104 TCN, họ không hề sở hữu một lực lượng quân đội chuyên nghiệp. Lúc bấy giờ, chỉ có các chủ đất mới tham gia vào quân đội. Giới bình dân (không có đất) không được phép phục vụ trong quân đội, ngoại trừ các trường hợp khẩn cấp.

Vào buổi đầu ấy, các binh lính coi việc tham gia bảo vệ quốc gia là bổn phận, trách nhiệm, cũng như là một đặc quyền. Và họ trung thành với nền cộng hòa chứ không phải với các vị tướng, bởi họ là các chủ đất nên không cần dựa vào tướng lãnh để được ban cho đất đai như một khoản trợ cấp sau khi giải ngũ.

Tuy nhiên, vấn đề trở nên phức tạp khi cộng hòa ngày càng mở rộng và phải đối đầu với nhiều đối thủ nguy hiểm như người Germanic và người Celtic. Nó cần một quân đội thường trực với quy mô lớn hơn, khi mà lực lượng binh lính gồm các chủ đất hiện không đáp ứng được điều đó.

Để giải quyết vấn đề này, Marius đã bãi bỏ yêu cầu về sở hữu đất đai trong việc tuyển quân. Hành động này mở đường cho giai cấp đông đảo nhất của La Mã, tức là giới bình dân, tham gia vào quân đội. Tuy nhiên, giờ đây lại có thêm một vấn đề phát sinh, ấy là việc trợ cấp cho đội quân không ruộng đất này sau khi họ giải ngũ.

Trước đây, Viện Nguyên lão chưa bao giờ cấp đất hay có bất cứ kiểu trợ cấp nào khác cho quân đội vốn là các chủ đất. Sau cải cách, đa số quân đội là giới thường dân, và việc Viện Nguyên lão cần phải làm là thay đổi chính sách này để giữ được lòng trung thành của quân đội với nền cộng hòa.

Tuy nhiên, Viện Nguyên lão đã từ chối. Hành động này đã mở đường cho các binh lính chuyển lòng trung thành của mình sang giới tướng lãnh, mà cụ thể ở đây là Marius, khi ông lấy đất đai trao cho binh lính của mình. Lúc bấy giờ, quân đội đã không còn là lực lượng đấu tranh cho nền cộng hòa, mà họ trở thành đội quân trung thành dưới trướng vị tướng đứng đầu của họ.

Nhiều tướng lãnh khác cũng bắt chước Marius, họ dùng đất đai để thao túng quân đội nhằm theo đổi các tham vọng chính trị. Sulla và Caesar là hai vị tướng điển hình, họ dẫn dắt quân đội tiến vào La Mã để thiết lập nên nền cai trị độc tài, phá vỡ kết cấu cộng hòa truyền thống.



Quân đội của Cộng hòa La Mã thời kỳ đầu. Tranh: Realmofhistory

Các giá trị cộng hòa bị suy đồi

Trong hàng trăm năm, Cộng hòa La Mã luôn duy trì thực hành các giá trị truyền thống như danh dự, tự chủ, trung thực, và công chính. Điều này là cơ sở giúp cho nội quốc La Mã ổn định, cũng như giúp nó chiến thắng các đối thủ bên ngoài và trở thành bá chủ khu vực Địa Trung Hải.

Tuy nhiên, tới tầm thế kỷ II TCN, khi các mối đe dọa bên ngoài không còn nữa, cộng với việc La Mã trở nên giàu có nhờ của cải thu được từ các thuộc địa, các giá trị đạo đức truyền thống bắt đầu dần mai một.

Sử gia Sallust cho rằng trong giai đoạn đầu và giữa của nền cộng hòa, La Mã thường xuyên bị đe dọa, điều này khiến không cá nhân nào có thể theo đuổi danh vọng và quyền lực. Nhưng sau khi chinh phục được Ý và Hy Lạp, La Mã đã loại bỏ được hai mối đe dọa chính. Giới lãnh đạo La Mã giờ đây có thể theo đuổi danh vọng cá nhân mà không cần phải bận tâm nhiều tới an nguy của nền cộng hòa nữa. Cũng vì vậy, họ dần vượt ra khỏi các chuẩn mực chính trị cộng hòa.

Các ứng viên chức vụ công ngày càng biết cách sử dụng các thủ thuật xảo trá để đạt được mục đích. Hối lộ và chính sách dân túy trở thành phương tiện quen thuộc để giành lấy quyền lực. Giới cai trị mua chuộc dân chúng thông qua các bữa tiệc, các thú vui, và các buổi trình diễn để thắng cử cũng như duy trì địa vị của mình.



Julius Caesar bị Viện Nguyên lão ám sát vì âm mưu độc tài trọn đời. Tranh: Vincenzo Camuccini, 1793.

Học giả cổ đại Plutarch coi Caesar là nhà dân túy thành công nhất, khi có thể giành lấy tình cảm của dân chúng bằng việc tổ chức các buổi trình diễn cũng như hối hộ quy mô lớn cho người dân. Khi nhắc đến Caesar, Plutarch viết rằng, “ông xài tiền một cách vô độ, và nhiều người nghĩ rằng ông ta đang mua danh tiếng tạm thời với cái giá quá đắt, song thực tế là ông ta đang mua vị trí giá trị nhất với một cái giá quá rẻ”. [1]

Tuy vậy, gian lận và chính sách dân túy vẫn chưa phải là thứ tệ hại duy nhất. Giới cai trị còn dùng tới bạo lực và chém giết để giành quyền lực. Những nhân vật hàng đầu đã không hề do dự khi giết chết hoặc trục xuất các đối thủ chính trị. Như trong cuộc xung đột giữa Marius và Sulla vào năm 88 TCN, Sulla đã lập ra danh sách các quý tộc theo phe Marius để vây bắt, tịch thu tài sản, và giết hại hàng ngàn người, trong đó có 90 Nguyên lão và 2600 kị sỹ.

Khi mà nền tảng đạo đức truyền thống bị xói mòn như vậy, kỳ cùng sẽ dẫn đến một nền chính trị suy đồi và những bất ổn xã hội, khiến nền cộng hòa sụp đổ.



Những vấn đề này đã thay đổi trật tự chính trị La Mã, phá vỡ thế cân bằng vốn có giữa ba bộ phận quân chủ, quý tộc, và dân chủ trước đây; và cuối cùng, chế độ quân chủ chuyên chế của Octavian cũng thay thế nền cộng hoà.

Sự sụp đổ của nền Cộng hòa La Mã đã để lại nhiều bài học cho người đời sau. Trong bài tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu xem các nhà lập quốc Mỹ đã kế thừa những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của Cộng hòa La Mã như thế nào khi thiết lập nền Cộng hòa Mỹ.

Chú thích:

[1] John Dryden (chuyển ngữ) 2015, Plutarch, Plutarch Lives: Life of Julius Caesar, CreateSpace Independent Publishing Platform, chương 5, mục 4.

Tài liệu tham khảo:

• Ian Scott-Kilvert (chuyển ngữ) 2010, Plutarch, Rome in Crisis, Penguin Classics.
• Anthony Everitt (chuyển ngữ) 2006, Augustus, Augustus: The Life of Rome’s First Emperor, Random House.
• A. J. Woodman (chuyển ngữ) 2008, Sallust, Catiline’s War, The Jurgurthine War, Histories,Penguin Classics.
• Andrew White, The Role of Marius’s Military Reforms in the Decline of the Roman Republic, Hst 499: Senior Seminar, 2011.
Theo LK

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những người bạn

 
Support : Creating Website | SkyskyskyTemplate | DoThanh Template
Proudly powered by Blogger
Copyright © 2011. Những người bạn của Sky+ - All Rights Reserved
Template Design by Creating Website Published by SkyDoThanh Template